CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM A.
Chúa Nhật: Ga 11, 1-45 + Chúa Nhật 26/03/2023 – Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. 26/03 – CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY NĂM A "Ta là sự sống lại và là sự sống".
Lời Chúa: Ga 11, 1-45 Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan. Khi ấy, có một người đau liệt tên là Ladarô, ở Bêtania, làng quê của Maria và Martha. (Maria này chính là người đã xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người. Em trai bà là Ladarô lâm bệnh). Vậy hai chị sai người đến thưa Chúa Giêsu rằng: "Lạy Thầy, người Thầy yêu đau liệt". Nghe tin ấy, Chúa Giêsu liền bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển". Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Ladarô. Khi hay tin ông này đau liệt, Người còn lưu lại đó hai ngày. Rồi Người bảo môn đệ: "Chúng ta hãy trở lại xứ Giuđêa". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, mới đây người Do-thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" Chúa Giêsu đáp: "Một ngày lại chẳng có mười hai giờ sao? Nếu ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì người ta thấy ánh sáng mặt trời; nhưng kẻ đi ban đêm sẽ vấp ngã vì không có ánh sáng". Người nói thế, rồi lại bảo họ: "Ladarô bạn chúng ta đang ngủ, dầu vậy Ta đi đánh thức ông". Môn đệ thưa: "Thưa Thầy, nếu ông ta ngủ, ông sẽ khoẻ lại". Chúa Giêsu có ý nói về cái chết của Ladarô, nhưng môn đệ lại nghĩ Người nói về giấc ngủ. Bấy giờ Chúa Giêsu mới nói rõ: "Ladarô đã chết. Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông". Lúc đó Tôma, cũng có tên là Ðiđimô, nói với đồng bạn: "Chúng ta cũng đi để cùng chết với Người". Ðến nơi, Chúa Giêsu thấy Ladarô đã được an táng bốn ngày rồi. (Bêtania chỉ cách Giêrusalem chừng mười lăm dặm). Nhiều người Do-thái đến nhà Martha và Maria để an ủi hai bà vì người em đã chết. Khi hay tin Chúa Giêsu đến, Martha đi đón Người, còn Maria vẫn ngồi nhà. Martha thưa Chúa Giêsu: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Tuy nhiên, ngay cả bây giờ, con biết Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa cũng sẽ ban cho Thầy". Chúa Giêsu nói: "Em con sẽ sống lại". Martha thưa: "Con biết ngày tận thế, khi kẻ chết sống lại, thì em con sẽ sống lại". Chúa Giêsu nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Bà thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian". Nói xong bà về gọi Maria em gái bà và nói thầm với em rằng: "Thầy ở ngoài kia, Thầy gọi em". Nghe vậy, Maria vội vàng đứng dậy và đi đến cùng Chúa. Vì lúc đó Chúa Giêsu chưa vào trong làng, Người còn đang đứng ở nơi Martha đã gặp Người. Những người Do-thái cùng ở trong nhà với Maria và an ủi bà, khi thấy bà vội vã đứng dậy ra đi, họ cũng đi theo bà, tưởng rằng bà đi ra khóc ngoài mộ. Vậy khi Maria đến chỗ Chúa Giêsu đứng, thấy Người, bà liền sấp mình xuống dưới chân Người và nói: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt đây, thì em con không chết". Khi thấy bà khóc nức nở và những người Do-thái theo bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Ðã an táng Ladarô ở đâu?" Họ thưa: "Thưa Thầy, xin đến mà xem". Chúa Giêsu rơi lệ. Người Do-thái liền nói: "Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết bao!" Nhưng có mấy kẻ trong đám nói: "Ông ấy đã mở mắt người mù từ khi mới sinh mà không làm được cho người này khỏi chết ư?" Chúa Giêsu lại xúc động; Người đi đến mộ. Mộ đó là một hang nhỏ có tảng đá đậy trên. Chúa Giêsu bảo: "Hãy đẩy tảng đá ra". Martha là chị người chết, thưa: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rồi vì đã bốn ngày". Chúa Giêsu lại nói: "Ta đã chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?" Thế là người ta cất tảng đá ra. Chúa Giêsu ngước nhìn lên và nói: "Lạy Cha, Con cảm tạ Cha đã nhậm lời Con. Con biết Cha hằng nghe lời Con, nhưng Con nói lên vì những người đứng xung quanh đây, để họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: "Ladarô! Hãy ra đây!" Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: "Hãy cởi ra cho anh ấy đi". Một số người Do-thái đến thăm Maria, khi được chứng kiến những việc Chúa Giêsu làm, thì đã tin vào Người.
CHÚA NHẬT 5 MÙA CHAY A 2023 Lời Chúa: Ed 37,12-14; Rm 8,8-11; Ga 11,1-45
1. Thầy là Sự Sống Lại--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ. 2. Hãy ra ngoài--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ. 3. Mở cửa mộ--TGM. Giuse Ngô Quang Kiệt 4. “Hãy ra khỏi mồ!”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên 5. Chúa nhật 5 Mùa Chay Ga 11,1-45--Lm. Carôlô Hồ Bạc Xái 6. Niềm hy vọng sống lại--Lm Giuse Đinh Lập Liễm 7. Sống và chết--Lm. Thái Nguyên 8. Chúa là sự sống lại--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNi 9. Chết để được sống--Lm. Đaminh Đặng Văn Cầu 10. Đức Yêsu là Sự Sống Lại và là Sự Sống--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 11. Hy vọng sống lại--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ. 12. Ai tin vào Đức Kitô thì dù đã chết cũng sẽ được sống--Lm. JB. Lê Ngọc Dũng 13. Sống và chết--Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng 14. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống--Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ 15. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống--Lm Antôn Nguyễn Văn Độ 16. Ta là sự sống lại và là sự sống--Lm Đan Vinh 17. Khát sống--Lm Ignatiô Trần Ngà 18. Nối kết với Chúa Giêsu là Nguồn ban Sự Sống--Lm Ignatiô Trần Ngà 19. Sự sống--Lm. Giuse Trần Việt Hùng 20. Cho một niềm tin--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên Phúc 21. Thời gian là của Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền 22. Niềm tin tín thác--Lm Giuse Tạ Duy Tuyền 23. Tình thương mạnh hơn sự chết--Cố Lm. Hồng Phúc 24. Thiên Chúa, Nguồn Sống và Sáng--Lm Bùi Quang Tuấn 25. Chứng nhân của tin mừng sống lại--Lm. Giuse Trương Đình Hiền 26. Suy niệm của Lm. Gioakim Bùi Văn Ninh 27. Tin vào cái gì, hay là tin vào ai?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille Degeest 28. Quyền năng và Yêu thương--Lm. Giuse Nguyễn Hữu An 29. Bên một Lazarô--Lm Giuse Nguyễn Hữu An 30. Sự Sống. Sự Phục Sinh--Lm. Trầm Phúc 31. Chúa cho Lazarô sống lại--Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy 32. Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--R. Veritas 33. Lagiarô sống lại--‘Sống Tin Mừng’--R. Veritas 34. Hãy ra khỏi sự chết--Lm. Nguyễn Khoa Toàn 35. “Ta là sự phục sinh của ngươi”--André Sève 36. Niềm tin bừng sáng--Br Philip-Minh Khả, CRM 37. Gieo mầm sự sống--Lm. Giuse Đỗ Đức Trí 38. Chôn cất--Lm Vũ Đình Tường 39. Từng bước--Lm Vũ Đình Tường 41. Chúa Nhật 5 Mùa Chay-- Lm Gioan Phan Tiến Dũng 42. Chính Ta Là Sự Sống Lại--Lm. Antôn Hà Văn Minh 43. Ngài là Sự Sống--Đinh Ngọc Thiệu 44. Để phép lạ xảy ra--Văn Chính, SDB chuyển ngữ 47. Chuyển rời, Đến gặp và Tin thì được Sống--Jos. Vinc. Ngọc Biển 48. Thầy là sự sống lại và là sự sống--Lm FX Vũ Phan Long 49. Tôi là sự sống lại--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang Tiến 50. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxio Hồ Thông 51. Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống--Lm. Joshepus Quang Nguyễn 52. Hãy khóc vì tội chúng ta--Lm. Joshepus Quang Nguyễn 53. Chúa Giêsu làm cho anh Ladarô sống lại--Alain Marchabour 54. "Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống"--John W. Martens 55. Suy niệm của Lm. Anthony Trung Thành 57. Chú giải của Fiches Dominicales. 58. Phục sinh Lagiarô--Học Viện Giáo Hoàng Piô X Đà Lạt 59. Sự sống mới--Lm Trần Bình Trọng 60. Thầy là sự sống--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh 61. Suy nghĩ về câu chuyện kẻ chết sống lại--Phạm Yên Thịnh 62. Đức Giêsu là nguồn sống--Lm Augustine, SJ. 63. Sự sống lại--Lm Phêrô Phạm Ngọc Lê 65. Niềm tin vào sự sống đời đời 76. Người rung chuông chân thật!. 83. Tin sẽ được sống--Huệ Minh
1. Thầy là Sự Sống Lại--‘Manna’--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.Suy Niệm Bệnh tật và cái chết đeo đẳng lấy đời người. Bệnh tật làm con người bị tê liệt. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm họ run rẩy. Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Cái chết đưa đến chia ly nên có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ. Hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lagiarô. Cả hai đều tiếc vì Thầy không có mặt lúc ấy. Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào... Bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu vẫn trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ. Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại. Làm sao nói hết được niềm vui của ba chị em, và sự kinh ngạc của những người chứng kiến. Trong sứ điệp nhân ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Thánh Cha đã yêu cầu các bạn trẻ "hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình yêu, những ngôn sứ của niềm vui." Thế giới văn minh nhưng có nhiều bóng tối sự chết: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, sida, những vụ ám sát, đặt chất nổ, tai nạn giao thông... Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, cái chết của tình yêu ở trong lòng con người. Cái chết thắng thế khi con người sống buông xuôi, chán chường và khép kín trong ích kỷ. Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria. Khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống và niềm vui cho thế giới. Thiên Chúa là Thiên Chúa của sự sống, đời này và đời sau. Ngài say mê sự sống của con người. Ước gì chúng ta dám cất đi những phiến đá che mộ để người chết có thể bước ra. Gợi Ý Chia Sẻ Chẳng ai thích sự chết, nhưng mặt khác, con người lại nghiêng chiều về bạo lực. Bạn có thấy khuynh hướng bạo lực ở nơi mà bạn đang sống không? Bạn đã làm gì để sống lời mời gọi này của Đức Thánh Cha: "Kitô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần giúp đỡ, có những giọt nước mắt phải lau khô, có những lời cầu cứu mong được đáp ứng"? Cầu Nguyện Lạy Chúa Giêsu thương mến, xin ban cho chúng con tỏa lan hương thơm của Chúa đến mọi nơi chúng con đi. Xin Chúa hãy tràn ngập tâm hồn chúng con bằng Thần Khí và sức sống của Chúa. Xin Chúa hãy xâm chiếm toàn thân chúng con để chúng con chiếu tỏa sức sống Chúa. Xin Chúa hãy chiếu sáng qua chúng con, để những người chúng con tiếp xúc cảm nhận được Chúa đang hiện diện nơi chúng con. Xin cho chúng con biết rao giảng về Chúa, không phải bằng lời nói suông, nhưng bằng cuộc sống chứng tá, và bằng trái tim tràn đầy tình yêu của Chúa. (Mẹ Têrêxa Calcutta) 2. Hãy ra ngoài--Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu SJ.Sự sống là điều đáng quý. Đầu năm 2020, thế giới đã đổi khác từ khi cơn dịch hoành hành. Con vi-rút Covid-19 đe dọa sinh mạng của mọi người chẳng trừ ai. Nó chu du như chỗ không người qua mọi quốc gia, mọi biên giới. Vì quý mạng sống, nên người ta phải hy sinh nhiều điều. Những thành phố trở nên vắng vẻ, mọi sinh hoạt vui chơi ngừng lại. Nhà thờ không thánh lễ, trường học đóng cửa, người già ở nhà. Phong tỏa và cách ly, sát trùng và đeo khẩu trang. Để bảo vệ sự sống, dù đó chỉ là sự sống tạm bợ ở đời này của thân xác, người ta đã phải chấp nhận hạn chế tự do cá nhân, ngưng làm những điều mà trước đây tưởng không thể bỏ. Bài Tin Mừng hôm nay cũng nói về sự sống và cái chết. Cái chết của một anh thanh niên được Đức Giêsu thương mến. Anh bị đau nặng, không rõ bệnh gì. Hai bà chị của anh vội vã nhờ người đến báo cho Đức Giêsu, hy vọng Ngài mau đến nhà chữa anh khỏi bệnh. Nhưng hai hôm sau Ngài mới thu xếp để lên đường đi Bêtania. Khi Ngài đến nơi thì anh đã được chôn bốn ngày rồi. “Nếu Thầy ở đây thì em con đã không chết” (Ga 11,21.32), Cả hai chị em Mácta và Maria đều nói câu đó với Đức Giêsu. Câu nói bắt đầu bằng chữ “nếu” đầy nuối tiếc buồn thương. Người ta vẫn hay nói như thế trước những chuyện đã lỡ. Tại sao Thầy lại không có mặt ở đây để cứu Ladarô, bạn của Thầy? Chắc chắn Thầy đủ khả năng chữa cho em con khỏi cơn bệnh nặng. Bây giờ thì muộn rồi, chẳng còn làm được gì nữa. Em con đã chết, nghìn trùng xa cách, bình vàng đã vỡ tan. Khi Đức Giêsu nói: “Em chị sẽ sống lại!” (Ga 11,23), Mácta chỉ nghĩ em mình sẽ sống lại vào ngày tận thế. Dù chị tin rằng Thiên Chúa luôn nghe lời Thầy nài xin (Ga 11,22), và tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (Ga 11,27) nhưng chị chẳng tin Thầy sẽ làm được gì trước ngôi mộ. Ngôi mộ là nơi sự chết thống trị, chưa ai thắng được nó. Chính vì thế khi Đức Giêsu bảo “Đem phiến đá này đi” Chị đã vội vã ngăn lại. Chị không tin Thầy có thể làm gì được với một thi thể đã bốc mùi. Một xác người chết đã bốn ngày thì đâu còn gì để hy vọng. Nhưng tại ngôi mộ này, vinh quang Thiên Chúa sẽ được bày tỏ. Đức Giêsu sắp làm dấu lạ lớn nhất tại đây, Để cho thấy Ngài thật là sự sống lại và là sự sống (Ga 11,25). Ngài lớn tiếng gọi tên người chết và bảo anh đi ra khỏi mồ. Ladarô đã vâng lệnh đi ra, dù chân tay còn bị quấn băng vải, mặt còn phủ khăn (Ga 11,44). Anh ấy được giúp để khỏi vướng víu và tự do đi được. Ladarô đã được hoàn sinh và ra khỏi thế giới của âm hồn. Đức Giêsu đã đánh thức Ladarô, và cho hai chị được gặp lại em. Chúng ta có quyền tin Đức Giêsu đã nở một nụ cười trên khuôn mặt chưa khô nước mắt, đã đón lấy Ladarô trong vòng tay, người mà Ngài thương mến. Ladarô rồi cũng có ngày sẽ chết, vì sự sống đời này chỉ là phù du. Qua dấu lạ này, Đức Giêsu đưa chúng ta đi xa hơn. Ngài hứa ban sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài, nơi đó cái chết không còn quyền lực (Ga 11,25-26). Vì làm cho Ladarô được sống lại mà Ngài bị kết án tử (Ga 11,45-54). Nhưng cái chết của Ngài đem lại cho chúng ta cuộc sống vĩnh hằng, nơi không còn buồn phiền, tang tóc, chia ly. Chỉ mong chúng ta hôm nay tin mạnh hơn chị Mácta khi cái chết rình rập và quật ngã bao người trên thế giới, khi niềm hy vọng tưởng như vỡ tan, vì nấm mồ đã chôn vùi mọi sự. Cầu nguyện: Lạy Chúa là Thiên Chúa của lòng con, Chỉ mình Chúa biết và thấy mọi nỗi xao xuyến của con. Chỉ mình Chúa biết rằng mọi khắc khoải của con đều do con sợ mất Chúa, sợ xúc phạm đến Chúa, sợ không yêu Chúa nhiều như con phải yêu và khao khát yêu. Lạy Chúa là Đấng thấu biết mọi sự, Đấng duy nhất có thể thấy tương lai, Nếu Chúa biết chính vì vinh danh Chúa hơn, và vì phần rỗi của con mà con phải ở lại trong tình trạng cùng khốn này, thì xin Chúa cứ để yên như vậy. Con không muốn né tránh đâu. Xin cho con sức mạnh để chiến đấu và chiếm được phần thưởng Chúa ban dành cho những tâm hồn mạnh mẽ. Cha thánh Padre Piô 3. Mở cửa mộ--TGM. Giuse Ngô Quang KiệtTai họa ngày 11 tháng 09 năm 2001 trên đất Mỹ đã trở thành một nỗi ám ảnh đối với mọi người. Trong phút chốc, hai tòa tháp chọc trời đổ sập xuống, trở thành ngôi mộ khổng lồ chôn vùi mấy ngàn sinh mạng. Ngôi mộ gieo tang thương. Ngôi mộ gieo kinh hoàng. Ngôi mộ làm rung chuyển thế giới. Ngôi mộ không chỉ hiện hữu từ khi toà tháp đôi đổ xuống. Trước đó ngôi mộ đã hiện diện trong trái tim của những người khủng bố. Sau đó ngôi mộ vẫn phủ màn u ám trên cuộc sống thân nhân bạn bè. Như thế, ngôi mộ không chỉ xây bằng gạch đá. Nó được xây bằng những lực lượng chết chóc như sự hận thù, sự áp bức, sự độc ác… Ngôi mộ không chỉ chôn vùi sự sống. Nó chôn vùi cả niềm tin, cả niềm hy vọng. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã dõng dạc mở cửa mộ và truyền cho người chết chỗi dậy bước ra. Việc Chúa Giêsu mở cửa mộ cho Lagiarô mở ra những chân trời mới cho đời sống con người. Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa sự sống. Thông thường, ngôi mộ là vương quốc của tử thần. Cửa mộ là cửa mở vào thế giới chết chóc. Ai đã vào đó chẳng còn hy vọng thoát ra. Nhưng hôm nay, Chúa Giêsu đã mở cửa mộ để Lagiarô không phải bước vào sự chết nhưng bước vào sự sống. Khi mở cửa mộ, Người phá tan sào huyệt Thần Chết. Khi tháo những dải băng liệm cuốn quanh thân thể Lagiarô, Người giải phóng ông khỏi dây trói ràng buộc của tử thần. Khi mở cửa mộ, Người đã mở cánh cửa niềm tin. Trước đó, niềm tin của Mácta chỉ là một niềm tin mơ hồ, chung chung của đa số người Do thái thời ấy. Nhưng sau khi thấy Lagiarô sống lại, niềm tin của bà trở nên cụ thể, sống động và vững vàng. Trước đó, nhiều người Do thái chưa tin vào Chúa Giêsu. Nhưng sau khi được chứng kiến Lagiarô từ cõi chết sống lại, họ không thể nào không tin. Tảng đá lấp cửa mồ tung ra cũng làm bật tung tảng đá nghi ngờ che lấp trái tim, đưa họ tới tin nhận Chúa là Thiên Chúa. Khi mở cửa mộ, Người mở ra cánh cửa niềm vui. Chết chóc gieo tang tóc u buồn. Ngôi mộ bao giờ cũng gợi lên nỗi buồn. Buồn ly biệt. Buồn mất mát. Buồn thất bại. Cái buồn vốn hay lây. Nước mắt người thân dễ làm cay mắt ta. Nên Chúa Giêsu không ngăn được dòng lệ. Nhưng khi Lagiarô bước ra, cả một trời vui. Đám tang bỗng biến thành đám hội. Lời chia buồn đổi thành lời chúc mừng. Thiên Chúa đã biến tang tóc thành niềm vui. Niềm vui ấy trọn vẹn. Khi mở cửa mộ, Chúa Giêsu mở cánh cửa hy vọng. Thiên Chúa đến biến đổi số phận con người. Con người không còn bị giam hãm trong thân phận hay chết, nhưng được thênh thang tự do trong cõi sống. Con người không sinh ra để chết đi nhưng để sống, sống mãi, vì Chúa là “sự sống”, “ai tin sẽ sống đời đời”. Con người không sinh ra để tàn lụi, nhưng để triển nở đến vô biên. Trong mỗi người chúng ta có nhiều nấm mộ. Chúng ta bị giam hãm trong những nấm mộ tội lỗi, gian tham, ích kỷ, bất công, đam mê, ghen ghét hận thù, nghèo đói, thất học… Có những nấm mộ kiên cố, tự sức mình không thể phá nổi. Ta hãy xin Chúa đến mở những cửa mộ, lăn những tảng đá đè nặng đời ta, để ta được sự sống dồi dào của Chúa nuôi dưỡng. Đồng thời, ta cũng phải tiếp tay với Chúa, phá đi những nấm mộ vây bọc anh chị em chúng ta, để mọi người được sống và sống dồi dào như lòng Chúa mong ước, như định mệnh Chúa dành cho ta, những người con cái Chúa. GỢI Ý CHIA SẺ 1) Tôi còn bị giam cầm trong những ngôi mộ nào? 2) Tôi còn muốn xây những ngôi mộ nào để chôn vùi anh em? 3) Hôm nay tôi phải làm gì để mở cửa mộ cho tôi và cho anh em? 4) Việc Chúa cho Lagiarô chết bốn ngày sống lại có ảnh hưởng gì trên tôi? 4. “Hãy ra khỏi mồ!”--TGM. Giuse Vũ Văn Thiên“Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống”. Đó là một đề tài quan trọng trong Tin Mừng Thánh Gioan. Ý tưởng này được nhấn mạnh nhiều lần trong Tin Mừng thứ tư và trong các Thư được truyền thống Giáo Hội công nhận tác giả là Gioan. Khi nhấn mạnh đến đề tài này, tác giả Tin Mừng muốn trình bày Đức Giêsu chính là Thiên Chúa và là nguồn mạch sự sống. Bởi trong giáo huấn của Cựu ước, thì chỉ có Thiên Chúa mới làm chủ sự sống và sự chết. Chỉ có Thiên Chúa mới có quyền mở huyệt và đưa những người trong âm phủ đi ra. “Hỡi dân Ta, này chính Ta sẽ mở huyệt cho các ngươi!”. Ngôn sứ Edêkien đã khơi lên nguồn hy vọng cho người Do Thái. Lời hứa “mở huyệt” này, vừa ám chỉ tới việc Chúa giải phóng Dân người khỏi ách nô lệ lúc bấy giờ để đưa về quê cha đất tổ, vừa hướng họ tới sự sống trường sinh vĩnh cửu, tức là sự sống Thiên Chúa sẽ ban cho con người sau khi chết. Theo giáo huấn của ngôn sứ Êdêkien, ngôi huyệt sẽ không còn là chỗ dừng chân mãi mãi, nhưng chỉ là tạm thời. Thiên Chúa quyền năng sẽ mở huyệt để thân xác con người không còn chết nữa, nhưng được sống với Chúa mãi mãi. Chúa Giêsu nhiều lần khẳng định: chính Người là sự sống. “Ta là Đường, là Sự thật, và là Sự sống” (Ga 14,6). Trong các phép lạ Chúa làm, có những phép lạ cho kẻ chết sống lại, như trường hợp người thanh niên là con bà góa ở thành Naim, hay bé gái 12 tuổi đã chết mà Chúa cho sống lại. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại là một phép lạ điển hình, nhằm chứng minh những gì Chúa khẳng định về sự sống. Trong cuộc đối thoại với bà Mátta, chị của người chết, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Chính Thày là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thày, sẽ không bao giờ phải chết” (11, 25-26). Cũng như lời Chúa tuyên bố qua ngôn sứ Êdêkien, lời Chúa Giêsu vừa nhắc tới sự sống trần gian, vừa hướng tới sự sống vĩnh cửu. Người là Thiên Chúa, Đấng có quyền làm cho kẻ đã chết được sống lại. Người cũng là Đấng ban cho con người sự sống đời đời. Lời hứa với người trộm lành trên cây thập giá đã chứng minh điều đó: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở trên Thiên Đàng với tôi” (Lc 23,43). Đức Giêsu đã dùng quyền năng Thiên Chúa kêu gọi ông Lagiarô ra khỏi mồ. Sự kiện này đã giúp cho người Do Thái tin vào Chúa. Thánh Gioan diễn tả một Đức Giêsu thực sự là “người”. Người chạm đến nỗi đau của con người, rơi lệ trước đau khổ của người khác và đưa họ từ cái chết đến sự sống. Chúa Giêsu không giống như một nhà phù thủy, nhưng là Thiên Chúa làm người có trái tim nhân loại, sẻ chia và mang lấy nỗi đau của con người, nhường cho con người hạnh phúc và vinh quang. “Tôi chính là Mục tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11). “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Những lời tuyên bố này cho thấy Chúa Giêsu hiến mình cho sự sống của con người. Hôm nay cũng như mọi thế hệ, Chúa vẫn tiếp tục hiến mình vì sự sống của chúng ta. Chuẩn bị cử hành mầu nhiệm thập giá và Phục sinh, đề tài “Chúa Giêsu là nguồn mạch sự sống” giúp chúng ta nhìn xuyên qua cái chết để thấy sự sống tuôn chảy từ thập giá. Nhờ cái chết của Chúa Giêsu mà nhân loại được sống. Người đã chết thay cho chúng ta. Người đã mang lấy án tử cho chúng ta được sống. Trên cây thập giá, Thiên Chúa đã làm cho Đức Giêsu thành tội nhân vì chúng ta. “Hãy ra khỏi mồ!”. Lệnh truyền này đã đưa ông Lagiarô từ cõi chết trở về cõi sống, đồng thời đem niềm vui cho thân bằng quyến thuộc. Mùa Chay là lời mời gọi đoạn tuyệt với tội lỗi để sống cuộc sống mới. Những thực hành Mùa Chay giúp ta ra khỏi nấm mồ tối của sự ích kỷ, chia rẽ và hận thù. Để bước ra khỏi huyệt mộ của tội lỗi, đòi hỏi mỗi chúng ta phải hy sinh cố gắng nhiều khi đến mức anh hùng. Vì thay đổi đời sống, hướng cuộc đời sang một ngã rẽ khác cũng có nghĩa là đoạn tuyệt với quá khứ, dứt bỏ mọi ràng buộc để được sống trong tự do của con cái Chúa, hướng về tương lai tươi sáng trong bình an. Nhờ cuộc sống mới, họ giống như người đang đi trong ánh sáng mặt trời, không sợ vấp ngã. Bà Mátta, chị của Lagiarô, mặc dù tuyên xưng đức tin một cách quả quyết, cũng không hy vọng em mình có thể sống lại. Bà nói với Chúa: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con đã ở trong mồ được bốn ngày” (Ga 11, 39). Chính trong lúc không một tia hy vọng theo lý luận thông thường của con người, thì quyền năng Thiên Chúa đã được tỏ bày. Chúa Giêsu đem hy vọng cho con người vào lúc họ cảm thấy bi đát nhất ở ngõ cụt của cuộc đời. Một thân xác bắt đầu thối rữa, nhờ quyền năng của Chúa, vẫn có thể được hồi sinh. Một con người dù tội lỗi tràn trề, nếu biết dừng lại sám hối, vẫn có thể được ơn tha thứ. Những ai đã can đảm và dứt khoát bước ra khỏi huyệt mộ thì sẽ sống một cuộc sống mới. Cuộc sống ấy không còn bị xác thịt chi phối nữa, tức là không còn bị những đam mê xác thịt ràng buộc và cản trở. Họ được tự do thanh thoát mặc dù vẫn sống trong thân xác còn mang nhiều yếu đuối. Chính Chúa Thánh Thần thúc đẩy và đổi mới chúng ta, nhờ đó chúng ta có sức mạnh để vươn lên trong sự sống mới này (Bài đọc II). Giữa đại dịch COVID-19, chúng ta không khỏi hoang mang lo sợ. Cả thế giới cầu nguyện nhưng dường như Thiên Chúa không để ý quan tâm. Lời Chúa hôm nay khích lệ chúng ta: hãy hy vọng và tín thác. Thiên Chúa có chương trình và phương pháp riêng của Ngài. Đến như thân xác ông Lagiarô đã bốc mùi và phân hủy Chúa còn làm cho sống lại. Lời cầu nguyện của chúng ta chắc chắn được Chúa nhận lời, vào lúc Chúa muốn, theo như cách Chúa muốn và nhằm tới ích lợi thực sự của chúng ta. Bởi lẽ, Thiên Chúa là Cha nhân hậu, luôn muốn điều tốt cho con cái của mình. 5. Chúa nhật 5 Mùa Chay Ga 11,1-45--Lm. Carôlô Hồ Bạc XáiA. Hạt giống... Bài Tin Mừng Chúa nhật thứ ba mặc khải Chúa Giêsu là nguồn nước hằng sống; bài Tin Mừng Chúa nhật thứ tư mặc khải Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian, còn bài Tin Mừng hôm nay mặc khải Chúa Giêsu là sự sống. Ta cần lưu ý rằng, theo Tin Mừng Gioan, “sự sống” không chỉ là sự sống của thể xác mà là sự sống trọn vẹn, chia xẻ chính sự sống của Thiên Chúa. Ladarô đã được Chúa Giêsu trả lại sự sống thể xác nhưng về sau thân xác ông cũng sẽ lại chết như bao người khác. Cho nên sự sống thể xác không quan trọng và quý giá cho bằng sự sống trọn vẹn trong sự kết hợp với Thiên Chúa cả ở đời này lẫn đời sau. B.... nẩy mầm. 1. Con người chúng ta quá lo lắng về cuộc sống thể xác, cho nên hễ gặp bất cứ thứ gì có thể làm hại hoặc giết chết sự sống này thì chúng ta rất sợ hãi. Mặc khải hôm nay một mặt có thể giúp giải thoát chúng ta khỏi những thứ sợ hãi đó. “Chúng con đừng sợ những thứ chỉ giết được thân xác mà không giết được linh hồn”. Mặt khác nó còn giúp chúng ta thấy được một sự sống khác quý giá và trường tồn hơn mà chúng ta phải chăm sóc. 2. Thực ra, sự sống đời này là gì? Ngôn sứ Isaia đã suy nghĩ: nó chỉ như cỏ hoa sớm nở tối tàn (Bởi thế người ta mới nói “cuộc sống phù du”). Và Isaia kết luận “Chỉ có lời Chúa là tồn tại vĩnh viễn” (x. Is 40,7-8). 3. Khổ đau to lớn thật, nhưng đối với Thiên Chúa, con người còn to lớn hơn đau khổ nhiều (Lấy ý của thi hào Tagore). 4. “Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao” (Gilbert K. Chesterton). 6. Niềm hy vọng sống lại--Lm Giuse Đinh Lập LiễmA. DẪN NHẬP. Cổ nhân đã đặt câu hỏi: “Nhân sinh tự cổ thùy vô tử”: con người từ xưa đến nay ai mà không chết? Đây là một sự thật hiển nhiên, không ai có thể chối cãi được. Nhưng chết rồi sẽ ra sao? Có nhiều ý kiến cho câu hỏi này? Hòai nam Tử nói: “Sinh ký tử qui”: sống là gửi, chết mới là về. Câu hỏi tiếp: về đâu và để làm gì? Đó là câu hỏi đòi chúng ta phải suy nghĩ và tìm ra câu giải đáp cho bản thân mình. Trong bài Tin mừng hôm nay, Thánh Gioan thuật lại việc Đức Giêsu làm cho Lazarô đã chết được sống lại trước mặt nhiều người chứng kiến. Cô Martha và những người chứng kiến đã xác nhận: Lazarô đã chết được 4 ngày và đã nặng mùi rồi. Đức Giêsu đòi cô Marta phải chứng mình cho mọi người thấy là Lazarô đã chết thật và đòi cô phải tin vào Ngài. Sau khi truyền mở cửa mộ, Ngài hô lớn tiếng: “Lazarô, hãy ra đây”! Lazarô đã chỗi dậy và ra khỏi mồ trước mặt mọi ngườiø. Sau đó Ngài truyền cởi dây băng và khăn liệm cho anh. Qua phép lạ này, Đức Giêsu hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày chung thẩm. Chúng ta đã đi qua được một nửa Mùa chay trong sự hy sinh hãm mình, trong việc sửa đổi con người cũ của mình. Chúa nhật này mở ra cho chúng ta một chân trời hy vọng của Kytô giáo. Chúa Giêsu đã đem đến cho chúng ta niềm hy vọng ấy, đồng thời mời gọi chúng ta hãy hoàn toàn phó thác cuộc sống chúng ta cho Ngài:: “Ai tin vào Ta sẽ không phải chết đời đời”. Với niềm tin tưởng đó người Kitô hữu chúng ta phải cố gắng sống một đời sống xứng đáng ở trần gian này, và mạnh dạn đón nhận cùng vượt qua mọi gian nan thử thách trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, cuộc sống của chúng ta có một ý nghĩa cao đẹp và lạc quan. B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. + Bài đọc 1: Ez 37, 12-14. Dân Israel đang bị lưu đầy ở Babylon. Đối với họ, tương lại hoàn toàn mù mịt. Nhiều người đã tỏ ra thất vọng, sống cho qua ngày, coi mình như đã chết. Thiên Chúa cho tiên tri Ezéchiel đến yên ủi và báo cho họ biết rằng Ngài sẽ đoái thương họ, Ngài sẽ giải cứu họ và đem họ về quê hương. Lời loan báo này của tiên tri Ezéchiel đi sau thị kiến đặc biệt về “các bộ xương khô”. Đó là hình ảnh tượng trưng cho Israel. Các bộ xương sẽ được cơ thịt bao phủ, được thổi hơi làm cho sống lại, trở thành một sinh linh mới. Lời hứa Phục sinh này mang hai ý nghĩa: a) Phục sinh tinh thần: họ sẽ được hồi hương. b) Phục sinh thể xác. Lịch sử dân Israel cho thấy lời hứa phục sinh tinh thần đã được thực hiện vào năm 539. Còn phục sinh thể xác sẽ diễn ra sau này nơi Chúa Kitô và mọi Kitô hữu. + Bài đọc 2: Rm 8,8-11. Theo thánh Phaolô, con người có hai sự sống: sự sống theo thể xác và sự sống theo Thần Khí. Sự sống theo Thần Khí quan trọng hơn. Mặc dầu thân xác Kitô hữu đã bị dâng cho tử thần vì tội lỗi, nhưng nhờ Phép Rửa, Kitô hữu lại nhận được Thần Khí sự sống và Phục sinh của Đức Kitô: “Đấng đã làm cho Đức Kitô sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài đang ngự trong anh em mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới”(Rm 8,11). + Bài Tin Mừng: Ga 11,1-45. Bài trình thuật việc ông Lazarô sống lại khá dài, có nhiều chi tiết, mỗi chi tiết đều có ý nghĩa, nhưng điểm nổi bật nhất là việc Đức Giêsu làm cho kẻ chết sống lại, loan báo sự phục sinh thể xác sau này. Việc cứu sống Lazarô là sự phục sinh thể xác cho chính Lazarô, nhưng việc cứu sống ấy còn báo trước cho chúng ta sự phục sinh thể xác của Chúa Giêsu và của mọi người nữa. Phép lạ phục sinh Lazarô như là một dấu chỉ: một đàng để làm vinh danh Chúa Cha nơi Người; đàng khác, để cho các môn đệ tin rằng Người được Chúa Cha sai đến. Lời tuyên xưng của cô Martha đã nói lên điều ấy: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian” (Ga 11, 27) và trong số những người Do thái đến thăm cô Maria và được chứng kiến việc Chúa Giêsu làm, có nhiều kẻ đã tin vào Người (Ga 11,15). C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA. Chúng ta sẽ được sống lại I. ĐỨC GIÊSU CHO LAZARÔ SỐNG LẠI. Câu chuyện Đức Giêsu cho Lazarô sống lại là một trình thuật căn bản của Tin mừng Gioan. Đức Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nazareth là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa tòan năng. 1. Đức Giêsu đến Bêtania. Bêtania ở cách Giêrusalem khỏang 3 cây số. Ở đó có một gia đình gồm ba chị em mà Đức Giêsu quen biết, đó là Martha chị cả, Maria và Lazarô là em út. Mỗi người có một tính tình khác nhau: Martha năng động, lo việc bếp núc và chạy vạy mọi việc trong nhà. Maria thì trầm lặng, ít họat động, thích chiêm mộ. Còn Lazarô, bạn thân của Chúa, đã được mời dự tiệc tại nhà ông Simon tật phong. Một hôm Lazarô bỗng đau nặng, hai chi em sai người đi báo tin cho Đức Giêsu một cách tế nhị: “Người Thầy yêu đau liệt”. Lúc đó Ngài còn đang đi truyền giáo tại Pêrê bên kia sông Giorđan chưa về. Ngài còn ở lại đó hai ngày nữa vì Ngài đã bảo người đưa tin rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó con người sẽ được hiển vinh”. Nhưng dù sao lễ Vượt Qua sắp tới, Ngài cũng cần phải đi Giêrusalem để dự lễ. Các môn đệ có vẻ ngần ngại vì thái độ thù nghịch của biệt phái mỗi ngày một tăng: “Mới hôm nào bọn Do thái tìm ném đá Thầy mà nay Thầy lại trở về đó sao”? Tuy các ông vẫn còn lưỡng lự, Đức Giêsu mới cho biết rõ: “Lazarô đã chết”. Rồi Ngài cương quyết: “Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”. 2. Đàm thọai với Martha và Maria. Khi tới Bêtania thì được tin Lazarô chết chôn được 4 ngày rồi. Nếu tính thời gian ấy thì tròn bốn ngày: đi báo tin Lazarô chết mất một ngày, Đức Giêsu ở lại hai ngày và trở về mất một ngày. Và theo phong tục Do thái thì chết là chôn ngay: chết sáng thì chiều chôn và chết đêm thì ban mai phải chôn, không được để lâu. Khi Đức Giêsu tới nơi thì có nhiều người Do thái đang đến chia buồn với gia đình này. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Martha đã vội vàng chạy ra đón và thưa ngay: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con đã không chết”. Qua lời nói đó, chúng ta có thể đọc rõ tâm trí của Martha. Cô muốn nói rằng: “Lúc được báo tin, sao Thầy không chịu đến ngay? Bây giờ mới đến thì đã muộn mất rồi”. Ngay sau khi thốt ra những lời ấy, tiếp theo là những lời nói trong đức tin, một đức tin thách thức mọi sự kiện, mọi kinh nghiệm. Cô nói bằng một niềm hy vọng trong tuyệt vọng: “Tuy nhiên, con biết rằng Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy bất luận điều gì Thầy cầu xin”. Để yên ủi cô, Ngài phán: “Em con sẽ sống lại”. Martha nói lên niềm tin của mọi người Do thái thời đó: “Con biết ngày tận thế em con sẽ sống lại” Đức Giêsu cho cô Martha biết Ngài sẽ cho Lazarô sống lại nhưng đòi ở nơi cô lòng tin mạnh mẽ. 3. Lazarô được sống lại. Đức Giêsu hỏi: “Đã an táng Lazarô ở đâu”? Các cô dẫn Ngài đến mộ. Đứng trước cửa mộ, Đức Giêsu truyền mở cửa mộ ra, nhưng người ta trả lời: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì đã 4 ngày”. Chúa đòi Martha xác nhận cho mọi người biết là em mình đã chết thực sự và đã bắt đầu thối. Trước khi làm phép lạ Chúa đòi cô phải có lòng tin mạnh mẽ vào Ngài. Sau khi hòn đá che cửa mộ được cất ra, Đức Giêsu lớn tiếng gọi: “Lazarô, hãy ra đây”. Người chết liền đi ra trước mặt mọi người, chân tay còn quấn băng và mặt còn phủ khăn liệm. Ngài ra lệnh cởi băng cho ông. Kết quả: một số đông người chứng kiến đã tin theo Đức Giêsu, nhưng còn một số đi báo tin cho nhóm biệt phái, những người luôn là đối thủ của Ngài. Có lẽ đây là một phép lạ lớn nhất mà Gioan thuật lại trong Tin mừng của ông. Làm cho kẻ chết sống lại là làm chủ cả sự chết lẫn sự sống. Nếu so sánh việc làm cho con gái ông Giairô và cậu con trai bà góa thành Naim vừa chết chưa thối thì phép lạ này hòanh tráng hơn nhiều và củng cố niềm tin cho những người chứng kiến. Trong câu chuyện này, cả Martha lẫn Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Martha đã có đức tin ở một mức độ nào đó, đức tin Do thái: “Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế”. Đức Giêsu mời cô tiến thêm một bước: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Con có tin điều đó không”? Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho những ai tin vào Ngài. Đó chính là mục đích của phép lạ này: “Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời Con… Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha đã sai Con” (Fiches dominicales A, tr 102). II. NIỀM TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI. 1. Tin vào Lời Chúa. Một quá trình dài tường thuật, chuẩn bị phép lạ cho Lazarô được sống lại, cho chúng ta thấy rằng mục tiêu chính yếu của đoạn trích Phúc âm Gioan 11,1-45 không phải là sự sống lại thể xác của Lazarô, nhưng chính là một “tiến trình niềm tin”cho những người vây quanh Đức Giêsu và cho chúng ta hôm nay. Đức Giêsu ngước mắt lên trời cảm tạ Chúa Cha không có mục đích cầu xin để làm cho Lazarô được sống lại nhưng có mục đích củng cố niềm tin cho các môn đệ, cho chị em Martha và Maria cũng như cho những người đến chia buồn với chị em. Tất cả bài học, lời dạy của Đức Giêsu hôm nay đều tập trung trong hai câu 25 và 26. Đức Giêsu đã mang lại cho chúng ta một mạc khải nền tảng: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11,25-26). Chính niềm tin vào Đức Kitô là một bảo đảm tuyệt đối để được sự sống muôn đời. Phép lạ cho Lazarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, tự nơi tạm bợ đến chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo hội. Thánh Phaolô nói: “Nếu Đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17). Trong kinh Tin kính, chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại...” Chính là trên cơ sở phải tin Đức Kitô đã phục sinh.. Sứ điệp Phục sinh không đem đến cho chúng ta những thực tế dễ dàng, hấp dẫn, dựa trên cở sở những kinh nghiệm khả giác và kỳ lạ, nhưng cho chúng ta một nhận thức về một mạc khải, một lời hứa: mạc khải Đức Giêsu đã chiến thắng sự chết và lời hứa mà Ngài có quyền hội nhập chúng ta vào sự chiến thắng đó. 2. Người đời nghĩ thế nào? a) Mọi người đều phải chết. Người ta công nhận rằng mọi người trên thế gian này đều phải chết, đây là một công lệ khắt khe buộc con người phải theo, dù muốn dù không. Vì thế cổ nhân đã nói: Nhân sinh tự cổ thùy vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh. (Văn thiên Trường) Ngày xưa, người thế ai không chết, Chết, để lòng son rạng sử xanh. Mọi người cũng đều công nhận là đời sống rất mong manh: Sinh hữu hạn, tử bất kỳ. Nhưng triết lý về cuộc sống của mỗi người lại khác nhau, mỗi người có một cái nhìn, một nhân sinh quan về đời sống. Có người có cái nhìn lạc quan, có người lại có cái nhìn bi quan. Có người tìm ra được ý nghĩa của cuộc sống, có người coi cuộc sống là phi lý, là vô nghĩa như trường hợp của những người theo triết thuyết hiện sinh vô thần. Có lẽ họ thích sống theo triết lý người La mã xưa: “Hãy ăn nhậu cho say, vì ngày mai bạn có thể chết”. Tâm lý con người: tham sinh húy tử. Đúng như vậy, con người ai cũng thích sống và ai cũng sợ chết. Đó là mối bận tâm muôn thuở của nhân loại. Đã là qui luật là qui luật: mọi người đều phải chết. Nhưng khi con người biết sống thì không sợ cái chết nữa, hay ít là coi nhẹ cái chết: Nhân cố hữu nhất tử, Tử hoặc trọng ư Thái sơn, Hoặc khinh như hồng mao. (Người đời ai cũng vẫn phải chết Nhưng có cái chết nặng như núi Thái sơn Có cái chết nhẹ như lông hồng). b) Chết rồi sẽ ra sao? Đối với những người không có đức tin thì câu hỏi chết rồi sẽ ra sao thì không thành vấn đề. Theo họ, chết là hết. Chết là kết thúc cuộc sống ở trần thế này và sẽ trở về hư không. Nhà văn Nhất Linh, một ngày bâng khuâng, ông tự hỏi mình: - Chết rồi sẽ ra sao nhỉ? Nghĩ ngợi một chốc, rồi ông lại tự trả lời lấy: - Hồi Hai Bà Trưng, tôi chưa ra chào đời. Thế khi ấy tôi ở đâu? Chết, tức là trở về tôi hồi ấy vậy. Nói cách khác, định mệnh bắt tôi phải đầu hàng thần Chết vô điều kiện. Tôi đã bởi hư vô mà có, thì chết rồi, tôi lại rơi vào cõi hư vô. Thảo nào mà một nhà thi sĩ lương dân đã phải khóc lên não nuột khi tưởng nhớ đến giây phút tủi nhục này: Nhưng mà tôi sẽ chết than ôi! Tôi run như lá, tái như đông, Trán chảy mồ hôi, mắt lệ phồng, Năm đẩy tháng dồn tôi đã đến Trước bờ lạnh lẽo cõi hư không. (Xuân Diệu) Đối với một số người, không những chết là hết nhưng chết còn là một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp. Karl Marx, ông tổ thuyết mac-xít vô thần, trong một bức thư viết cho người bạn của ông là Lassanler đã nói về cái chết của đứa con mình như sau: “Cái chết của đứa con trai tôi đã làm cho tôi đảo điên. Lúc nào tôi cũng cảm thấy như cái chết ấy mới xẩy ra ngày hôm qua thôi. Còn vợ tôi thì hoàn toàn ngã gục vì biến cố này”. Ai trong chúng ta cũng cảm thông được với nỗi đau đớn tột cùng này của ông tổ thuyết Mac-xít vô thần. Cái chết là một mất mát mà không gì có thể lấp đầy được. Sự mất mát ấy lại càng khủng khiếp hơn khi con người không còn một niềm hy vọng nào vào cuộc sống mai hậu. Chối bỏ cuộc sống mai hậu cũng có nghĩa là tự đọa đầy mình vào một nỗi tuyệt vọng khủng khiếp nhất (D. Wahrheit, Phép lạ trong cuộc đời, tr 257). Nếu không còn niềm tin nào vào cuộc sống mai hậu thì người ta dễ đi đến những kết luận bi quan, muốn tận hưởng trước khi chết để đi vào hư vô: Người ơi, tận hưởng đi mùi thế tục, Trước ngày tan nát cõi tha ma. (Omar) 3. Chúng ta nghĩ thế nào? Chúng ta hãy tin nhận Lời Chúa. Thiên Chúa là Đấng chân thật vàøtrung thành với lời hứa. Tin vào Chúa sẽ không bị đi lầm đường: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. (Ga 11,25-26). Tuy đã tin vào Chúa, nhưng đức tin không miễn trừ cho chúng ta những thử thách khổ đau trong tang chế, trong sự từ bỏ mình hằng ngày và sự sợ hãi đối với sự chết, nhưng niềm tin của chúng ta chấp nhận để hiểu biết và sống trong những hoàn cảnh hiện tại theo ánh sáng của sự sống cao thượng hơn mà Đức Giêsu đã dạy và chính Ngài là nguyên nhân của sự sống cao thượng đó. a) Mọi người đều phải chết. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy trên trần gian này không có ai sống trường sinh bất tử. Tuy khoa học và cách riêng ngành y học đã đạt được đỉnh cao nhưng người ta chưa tìm ra được một phương cách nào để con người được sống mãi. Truyện: thuốc trường sinh. Thời chiến quốc, có người dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vị thuốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng: - Vị thuốc này có uống được không? Người ấy đáp: - Uống được. Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng: - Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “Uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc tử chứ sao gọi là thuốc bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa. b) Chết chưa phải là hết. Nhà triết học Heiddeger đã nói: “Nếu chết là hết, thì người đời luôn luôn sống trong lo sợ. Bởi vì biết rằng mình sẽ chết, vậy sẽ trở về cõi hư vô, thì tức là đã mang hư vô trong mình rồi. Sống làm gì nữa để ngày mai rơi vào cõi hư vô”. Thánh Phaolô đã xác quyết với chúng ta: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). c) Chết đi để sống lại. Một điều chắc chắn là sự chết dẫn ta đến sự sống lại. Lẽ dĩ nhiên chết không phải là điều tốt, nhưng nó là đoạn đường ta phải vượt qua để đi từ cuộc sống đời tạm này qua cuộc sống vĩnh cửu. Sự chết không phải là sự chết đơn thuần, không phải là con đường cụt, không lối thoát. Thiên Chúa không yêu thương chúng ta vô ích, không dựng nên ta để rồi biến ta ra hư vô. Chúa yêu thương ta vô hạn, đã ban chính Con Một của Ngài cho ta không phải để cho ta thấy ta biến vào hư vô sau cái chết, nhưng để ta được sống lại và được kết hợp với Ngài. (Lm Đỗ thanh Hà, báo Lên đường) Chúng ta tin là có sự sống lại trong ngày sau hết như Chúa đã báo trước. Chúng ta cũng tuyên xưng đức tin trong kinh Tin kính: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy”. Tuy thế vẫn có những người không tin. Truyện: Không có sống lại. Ở một nghĩa địa bên Đức, có một ngôi mộ lớn và đẹp, xây bằng đá hoa cương và bê tông cốt sắt. Đó là mộ của một bà giầu có và vô thần, trong chúc thư bà muốn xây như vậy để chối bỏ sự sống lại. Bà còn muốn trên ngôi mộ phải đề dòng chữ này: ngôi mộ này sẽ không bao giờ mở ra được. Thời gian trôi qua, tình cờ một hạt giống rơi xuống, mọc cây, rễ của nó ăn vào mộ và xuyên thủng quan tài của bà. (Theo Veritas ngày 27.07.1993). 7. Sống và chết--Lm. Thái NguyênQua bài Tin Mừng, chúng ta cảm nhận được nét đẹp đầy cảm động về tình bạn của Chúa Giêsu. Là Con Thiên Chúa, nhưng Ngài vẫn không cầm được nước mắt bên mồ của Ladzarô. Ngài đã trở nên giống chúng ta, sống thân phận của chúng ta, đau cái đau của chúng ta, khổ nỗi khổ của chúng ta. Và rồi đây Ngài cũng sẽ phải chịu đau khổ tận cùng, khi chấp nhận cực hình trên thập giá để cứu chuộc chúng ta. Khi để cho Lazarô chết, Đức Giêsu muốn cho thấy Ngài không đến để ngăn chặn cái chết thể lý. Công việc của Ngài không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển sự sống tự nhiên của con người. Ngài không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng trước tiên là để sống thân phận con người, với tất cả những hậu quả bi đát của nó do tội lỗi gây ra. Nhưng rồi Ngài cũng đã làm cho anh Lazarô sống lại, để biểu hiện quyền năng sự sống của Thiên Chúa nơi Ngài. Với bản tính con người, Ngài cảm thông, chia sẻ và nâng đỡ chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài cho chúng ta được chỗi dậy, được thông phần sự sống Thần Linh của Ngài, như Ngài đã công bố: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Chúa Giêsu không chỉ mở cửa mộ cho Ladarô ngày xưa, mà Ngài đang mở cửa mộ cho con người hôm nay, bởi vì mỗi người chúng ta đang chết một cách nào đó. Đó là cái chết thiếu đức tin, thiếu lòng yêu mến và cậy trông hy vọng. Đó là cái chết của một xã hội mà sự phát triển kinh tế không đi đôi với đạo đức; một xã hội muốn loại trừ Thiên Chúa nhưng lại tôn thờ ngẫu tượng; một xã hội văn minh tiến bộ nhưng nhân phẩm con người lại bị chà đạp thảm thương. Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm hơn, là cái chết của tình yêu ở trong lòng người. Đó mới là cái chết đáng sợ, vì không còn là cái chết tạm bợ, nhưng là cái chết vắng bóng Thiên Chúa. Cái chết đó đang len lỏi vào đời sống đạo của chúng ta, nhất là đối với giới trẻ, những con người dễ bị mê hoặc bởi những hào nhoáng bên ngoài, và dễ buông theo lối sống ảo, là những cạm bẫy giả tạo của sự chết. Chỉ có Chúa Giêsu mới có thể giải thoát chúng ta khỏi những cái chết tai ác, vì Ngài là sự sống lại và là sự sống. Chỉ có Chúa mới có thể mở những cửa mộ của lòng ta, lăn những tảng đá đè nặng trên cuộc đời ta, để ta bước ra khỏi thế giới sự chết mà đi vào thế giới sự sống. Sự sống lại của Ladarô dù sao cũng chỉ là tiếp nối cuộc sống dương thế, điều quan trọng là sự sống đời đời mà chính Chúa sẽ đem lại cho ta nhờ cuộc tử nạn và phục sinh của Ngài. Chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cuộc đời mình cho Chúa, để Chúa đưa chúng ta vào cuộc sống mới từ hôm nay. Chỉ khi gắn bó với Chúa Giêsu, ta mới có khả năng ra khỏi nấm mộ của bản thân mình, và có khả năng thông truyền niềm vui sự sống cho những người chung quanh, đúng theo ơn gọi của mình là môn đệ Đức Giêsu. Cầu nguyện Lạy Chúa Giêsu! sống là chấp nhận có ngày phải chết, và biết rằng tất cả sẽ không còn gì hết, thế nhưng ai cũng ngậm ngùi chua xót, vô cùng đắng đót trước cảnh biệt ly, khi kẻ ở người đi không mong gì gặp lại. Chính Chúa cũng thổn thức và xao xuyến, đến nỗi không ngăn được dòng lệ nhỏ, trước người bạn hiền đã từ bỏ thế gian, dù biết rằng đây chính là một dịp, để Ngài gửi đến thông điệp về sự sống. Chúa chẳng bao giờ muốn để ai phải chết, nhưng cái chết là hậu quả của tội lỗi, vì con người đã manh tâm phản bội, khi nghe theo dục vọng của lòng mình, ngang nhiên cắt đứt mối tình với Thiên Chúa. Tuy cái chết đã đi vào thế giới, nhưng Chúa đã đem lại sự sống mới cho đời, cho tất cả những ai tin vào chính Chúa, để vượt qua những lối sống gian tà, và bước theo Chúa trên con đường thập giá. Cuộc đời này ai rồi cũng phải chết, nhưng con biết tình yêu không bao giờ chết, khi con dám dâng hiến hết cuộc đời mình, vì cái chết là điểm kết của con đường từ bỏ, để mở ngỏ hướng tới sự sống mới huy hoàng, mà Chúa đã mở màn bằng sống lại vinh quang. Nên cái chết thân xác chẳng có gì đáng sợ, nhưng đáng sợ là cái chết tình yêu trong lòng, vì chẳng còn gì nữa để trông mong, khi con người đã buông xuôi và tuyệt vọng, khép mình trong ích kỷ của cô độc ngàn đời. Lạy Chúa Giêsu! Chúa là sự sống lại và là sự sống, xin cho con luôn sống gắn bó với Chúa, để tình yêu không héo úa suy tàn, mà mỗi ngày càng sâu rộng tỏa lan, góp phần với Chúa đem bình an cho thế giới, để đạt tới bình an trong sự sống mới muôn đời. Amen. (Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 45) 8. Chúa là sự sống lại--ViKiNi--‘Xây Nhà Trên Đá’--Lm. ViKiNiBao nhiêu lần chúng ta rất đau khổ chứng kiến cái chết của những người thân yêu. Thế giới này đã chứng kiến hàng tỉ người chết, người ta tính từ khi có loài người tới giờ có tới gần 100 tỉ người chết. Gia đình hai chị em Matta và Maria chứng kiến cái chết của đứa em ruột rất yêu dấu. Trước nỗi khổ cực của những người thân mến, Đức Giêsu cũng khóc. Cái khóc của Người không bất lực như ta, Người đã cho Ladarô sống lại, dù đã chôn bốn ngày trong mộ hôi thối rồi. Trước phép lạ chưa từng thấy trong lịch sử loài người, cả thủ đô Giêrusalem reo mừng hân hoan. Họ tung hô đón rước Người vào thành làm vua, kẻ phất cành lá vạn tuế, kẻ trải áo làm thảm cho Người đi qua. Đức Giêsu không làm vua, làm chúa chính trị để cai trị dân. Nhưng phép lạ cho Ladarô chết sống lại chứng tỏ Đức Giêsu nắm quyền làm chủ sự sống và sự chết của muôn loài. Đó là quyền của Thiên Chúa, không ai có quyền đó. Các nhà khoa học đã tính được hơn một triệu loài vật sống trên thế giới này, mỗi loài có hàng tỉ con, mỗi con lại có hàng tỉ tỉ tế bào sống. Mỗi người chúng ta được xây bằng 30.000 tỉ tế bào sống. Ta thử nhân sự sống của mỗi tế bào với hàng tỉ người với hàng tỉ tỉ loài vật, ta sẽ không thể tưởng tượng được sự sống đó vô cùng lạ lùng như thế nào. Đấng ban phát sự sống đó vô cùng, vô cùng lạ lùng như thế nào nữa! Nhìn thấy rõ muôn hình vạn trạng của sự sống cực kỳ linh diệu, thế mà vẫn còn nhiều người không tin có Đấng ban sự sống, không tin có Thiên Chúa hằng sống. Họ giống như những chức trách Do thái thấy Ladarô chết chôn trong mồ bốn ngày được Chúa cho sống lại, thì họ càng thù ghét Người. Họ tìm cách giết Người và giết cả Ladarô. Tuy Người cho họ giết thân xác tạm thời này trong ba ngày, rồi Người lại sống lại vinh quang muôn đời, vì Người là sự sống lại và là sự sống, như Người đã nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dù đã chết, cũng sẽ được sống”. Cho nên nhiều lần Người trấn an chúng ta: “Anh em đừng sợ những kẻ giết thân xác mà không giết được linh hồn. Đúng hơn, anh em hãy sợ Đấng có thể giết cả hồn lẫn xác trong hỏa ngục” (Mt. 10, 28). Giáo Hội Công Giáo ngày nay đang tranh đấu cứu sống cho hàng triệu trẻ em vô tội bị giết. Trong thế chiến thứ hai, nhà bác học vĩ đại Einstein đã ca tụng Giáo hội Công Giáo: "Hội Thánh Công Giáo là tiếng nói độc nhất chống lại cuộc tàn sát của Hitler trong thế chiến thứ hai. Tôi tỏ lòng thán phục và biết ơn sâu xa Hội thánh này”. Chắc chắn trong thiên niên kỷ 3000, nhân loại cũng sẽ biết ơn Hội thánh như Einstein vậy. Sự sống quý báu nhất trên đời, sự sống lại đời đời còn quý giá vô cùng hơn nữa vì ta không còn chết nữa. Lạy Chúa, xin cho muôn người được sống và được sống dồi dào trong vinh quang nước Chúa, như Chúa đã hứa: “Ta đến cho thế gian được sống và được sống dồi dào”. 9. Chết để được sống--Lm. Đaminh Đặng Văn CầuNgười ta thường nói "Đẹp như hoa". Nhưng tại sao hoa lại đẹp thế nhỉ? Có bao giờ bạn đặt câu hỏi như vậy chưa? Theo chủ quan của tôi thì khoa học hay triết học không trả lời được câu hỏi này nên tôi tìm đến Kinh Thánh. Chính Đức Giêsu đã trả lời cho câu hỏi của tôi: "Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn mai bị quăng vào lửa, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em, ôi những kẻ kém tin"(Mt 6,30). Thế là đã rõ, chính Thiên Chúa đã tạo nên, ban tặng vẻ đẹp và sự kiều diễm cho hoa đến nỗi bậc đế vương sang trọng như Salômôn cũng không sánh bằng. Nhưng tôi lại thắc mắc: Hoa đẹp vậy mà tại sao lại chóng tàn thế? Tại sao chỉ một cơn gió mạnh cũng làm nó biến đi, chỗ nó mọc không còn vết tích? Tôi lại tìm được câu trả lời ngay trong đoạn Kinh Thánh vừa được trích: Chúa muốn qua loài hoa để dạy tôi về sự quan phòng của Ngài và muốn tôi hãy phó thác cho tình yêu thương của Cha trên trời. Ngài còn nhắc tôi nhớ lại câu ca dao đồng nội tương đương với Thánh Vịnh 90 nói về sự mỏng giòn chóng qua của kiếp nhân thế: "Đời người khác thể bông hoa Sáng ngày hé nở chiều ra đã tàn" Tương đương "Như cỏ đồng trổ mọc ban mai Nở hoa vươn mạnh sớm ngày Chiều về ủ rũ tàn phai chẳng còn... " (Tv. 90, 5-6) Đúng vậy, kiếp nhân sinh thật vắn vỏi: Ấy con người khác chi hơi thở, Vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu. Nhưng chẳng lẽ Chúa gửi cho đời những bông hoa đẹp như vậy mà lại chỉ thông báo những điều tiêu cực và chỉ để: Ngồi lại bên đời thương dĩ vẵng Nghe trong lòng câu "hoa sớm nở tối tàn" Theo tôi Chúa muốn gửi đến cho mọi người thông điệp khác nữa: Hoa đến báo hiệu mùa Xuân tới, Mùa hy vọng, mùa sự sống vũ hoàn Sứ điệp loài hoa không chỉ nhắc cho con người về sự mỏng giòn chóng qua mau hết nhưng còn khơi lên niềm hy vọng: Chết không phải là hết mà là: Thu qua Đông tới Xuân về Cúc tàn Sen nở trên quê vĩnh hằng. Anh em Phật giáo quan niệm: Nếu sống tốt, sống lành, sống thiện thì khi Thu qua Cúc tàn sẽ được hưởng mùa Xuân Vĩnh Hằng trên tòa sen. Còn nếu sống ngược lại thì sẽ bị hóa thân làm kiếp khác thấp hơn, xấu hơn. Đó chính là niềm tin có sự sống đời sau được diễn tả qua thuyết luân hồi. Còn người Kytô chúng ta không chỉ nhận ra những dấu chỉ, những mạc khải của Chúa về sự sống sau cái chết qua thiên nhiên, qua khát vọng sống vĩnh cửu của con người, mà còn được chính Thiên Chúa cho biết về điều đó. Từ rất xa xưa, qua ngôn sứ Ezékiel Chúa đã thông báo cho Dân Ngài và cũng là cho toàn thể nhân loại một tin mừng: "Hỡi dân Ta, các ngươi sẽ biết Ta là Chúa, lúc Ta mở cửa mồ các ngươi, và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta, và các ngươi sẽ được sống." (Ed 37, 13) Lời hứa đó được thực hiện nơi Con của Ngài, và phép lạ "kéo Lazaro ra khỏi mồ" hôm nay là một dấu chỉ, một điều báo trước cho phép lạ vĩ đại nhất, kỳ công lớn lao nhất mà Thiên Chúa, qua Thánh Thần của Ngài, sắp thực hiện nơi Đức Giêsu Kytô, và chính đó là niềm hy vọng lớn lao nhất của chúng ta: "Và nếu thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kytô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Kytô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần của Người ngự trong anh em" (Rm 8, 11) Như vậy muốn ra khỏi mồ thì phải vào trong mồ đã, tức là phải chết đi cho xác thịt, cho tội lỗi và sống trong Thánh Thần. Mùa Chay chính là thời gian thuận tiện để chúng ta chết cho tội. Hãy vào trong "ngôi mộ tình thương" của Bí ích Hòa Giải để cảm nghiệm sự khốn cùng của kiếp người và tình thương bao la của Thiên Chúa (Tv 129), để được nghe và đáp lại lời Chúa mời gọi: "Hỡi Lazaro hãy ra khỏi mộ"! Hãy chết cho xác thịt để hoa trái của Thánh Thần nở rộ giũa cuộc đời: "Hãy chấp nhận làm cõi lòng tan nát, như hoa tàn dâng trái ngọt lựng hương" Chính những trái ngọt lựng hương mang được "làm chín" bởi Thánh Thần và bởi "tấm lòng tan nát dày vò" này sẽ là của lễ mà Thiên Chúa yêu thích nhất và nhất là đươc sống đời đời với Đấng đã tuyên bố: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống đời đời" (Ga 11, 25). Amen. 10. Đức Yêsu là Sự Sống Lại và là Sự Sống--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.Có cái chết thể lý và cũng có cái chết tinh thần. Cái chết tinh thần làm con người tuyệt vọng và đôi khi dẫn tới cái chết thể lý. Đức Yêsu là sự sống lại, là Đấng làm cho những người tuyệt vọng được hy vọng trở lại. Ngài là lẽ sống và sự sống của con người. 1. Mong chờ được giải thoát khỏi buồn phiền Có thể nói, ai cũng có kinh nghiệm về niềm vui nỗi buồn, về hy vọng và thất vọng, về thành công và thất bại. “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí”. Ít có ai thành công trọn vẹn về mọi phương diện trên đời, làm sao tránh được những buồn phiền và chán nản! Ai có thể mang lại hạnh phúc cho con người! Dân Do Thái thời bị lưu đày sang Babylon, xa quê cha đất tổ, nơi đất khách quê người, cô thế cô thân nên bị hà hiếp bóc lột, vẫn mong có một ngày được trở về quê hương. Thiên Chúa đã giải phóng dân khỏi cảnh lưu đày, khi cho một vị vua khác nổi lên chinh phục những nước láng giềng, và cả đế quốc Babylon. Vị vua này, theo tác giả sách tiên tri Ysaya, là Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa đối với người Do Thái. Vua Kyrô xứ Ba-Tư đã ra chiếu chỉ cho phép người Do Thái lưu đày được trở về quê hương. Dân Do Thái vui mừng như từ cõi chết sống lại. Thiên Chúa là Đấng mang lại niềm vui và sự sống cho dân Ngài. Thiên Chúa luôn là Đấng đong đầy khát vọng của con người. Nơi Kitô hữu, Đức Yêsu là Đấng Trung Gian duy nhất giữa Thiên Chúa và con người. Thiên Chúa ban tất cả cho con người trong và nhờ Đức Yêsu Kitô. 2. Ta là sự sống lại và là sự sống Trong cuộc đời rao giảng, Đức Yêsu đã làm cho một vài người đã chết được sống lại, như con bà goá thành Naim, con gái ông Giairô, và Lazarô. Số người được Đức Yêsu làm sống lại trong suốt đời Ngài không nhiều, tuy nhiên đó là những dấu chỉ cho thấy Đức Yêsu là sự sống lại. Qua đời sống của Ngài và nhờ Thánh Thần, Đức Yêsu giúp những đầu gối rã rời, những người tuyệt vọng, thấy được lẽ sống trên đời. “Ai tin vào Ta, thì dù người đó có chết, cũng sẽ sống lại; và ai đang sống mà tin Ta, thì sẽ không bao giờ phải chết”. Đức tin vào Đức Yêsu, sẽ làm cho người đó sống lại. Tin vào Đức Yêsu, hàm chứa tin rằng Thiên Chúa yêu thương con người và Ngài đang hành động qua Đức Yêsu, là tin rằng Thiên Chúa đang làm tất cả cho con người qua Đức Yêsu. Thiên Chúa là Đấng vô cùng quan trọng, và là Đấng yêu thương con người vô cùng. Tại sao mình đi tìm những điều phụ thuộc, để rồi buồn phiền khi không được những điều đó? Con người sẽ thất vọng và tuyệt vọng khi không chọn Thiên Chúa là tất cả cho mình. Nếu một người chọn Thiên Chúa là tất cả- và thực sự chỉ có Thiên Chúa là giá trị tuyệt đối, thì họ luôn luôn toại nguyện vì Thiên Chúa luôn yêu thương và Ngài ban tất cả cho họ, kể cả chính Thiên Chúa. 3. Niềm tin vào Đức Yêsu Nơi Đức Yêsu có một điều gì đó vừa bình thường vừa đặc biệt. Ngài vẫn ăn uống ngủ nghỉ như mọi người, nhưng vẫn có một điều gì đó khác thường và siêu việt. Ngài là dấu chỉ Thiên Chúa đang hiện diện với con người, Ngài là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương con người. Ngài khát nước mệt mỏi ngồi phệt bên cạnh giếng, nhưng cũng không cần ăn để nói về Thiên Chúa, ngay cả chỉ có mỗi một thính giả là chị phụ nữ người Samaria. Ngài thổn thức thương cảm bà mẹ goá thành Naim cũng như chị em Maria Matta, nhưng cũng dứt khoát và xác tín “Lazarô, hãy bước ra”. Nơi Đức Yêsu có điều gì đặc biệt, làm người ta tin rằng, Ngài có thể làm được mọi chuyện. Khi gặp Đức Yêsu, Matta nói: “nếu Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng ngay cả bây giờ, bất cứ gì Thầy xin Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ ban cho Thầy”. Dường như Matta có lúc đã dám tin rằng Đức Yêsu có thể phục sinh Lazarô nếu Ngài muốn. Biết đâu niềm tin này giúp Lazarô được phục sinh! Xin cho chúng ta có niềm tin vào Đức Yêsu, để chúng ta có được tất cả như lòng mong ước, để rồi được sống lại với Ngài ngay từ giây phút này. Câu hỏi gợi ý chia sẻ: 1. Bạn có biết ai “như thể được sống lại” nhờ vào Đức Yêsu không? 2. Theo bạn, Matta và Maria, ai tin và yêu Đức Yêsu hơn? Tại sao? 3. Lazarô sống lại và Đức Yêsu sống lại khác nhau ở điểm nào? 11. Hy vọng sống lại--Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, SJ.Đức Yêsu cố tình trì hoãn không đến Yerusalem để Ladarô chết, hầu Ngài có dịp mặc khải cho chính Ngài cho các tông đồ. Ladarô còn trẻ, cái chết đã cướp đi người em của Matta và Maria! Một mất mát không gì có thể bù đắp lại được. Đức Yêsu thổn thức và xao xuyến (Ga.11, 33). Đức Yêsu chia sẻ nỗi buồn đau của kiếp người, như bất cứ ai. Giọt nước mắt, là chuyện thường tình, nhưng cũng là giọt nước mắt thánh trong tình yêu. Sự thổn thức xao xuyến của kiếp người, cũng là những tình cảm thiêng liêng thánh thiện. "Nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết; nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy" (Ga.11, 21-22). Một lời trách nhẹ nhàng, và một lời diễn tả điều ao ước mà không dám nói! Phải chăng chị Matta tin Đức Yêsu có thể làm cho Ladarô sống lại, mà chị không dám xin "nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy". Một niềm tin quá tuyệt! "Em chị sẽ sống lại"! Chuyện này rõ rồi, con cũng tin như vậy: "con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại", nhưng.... (Thầy có hiểu điều con muốn xin mà không dám nói với Thầy không?). "Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Thầy thì dù đã chết cũng sẽ được sống; Còn ai sống mà tin Thầy thì sẽ không phải chết" (Ga.11, 25-26). Đức Yêsu đã phục sinh Ladarô! Niềm vui như vỡ trào, không chỉ đối với chị em Matta Maria mà còn đối với cả dân chúng nữa! Còn cái gì nữa? Thiên Chúa muốn làm gì nữa qua con người Yêsu này (lúc này dân chúng chưa biết Đức Yêsu là Thiên Chúa)? Tất cả mọi người sẽ sống lại? (Nếu chết ba ngày rồi mà Đức Yêsu còn có thể làm cho sống lại, thì chẳng lẽ Ngài không thể làm cho kẻ chết bốn ngày sống lại được? Và tương tự như thế cho những người đã chết năm ngày hay sáu ngày, v.v.?). Vấn đề chính là Đức Yêsu có muốn hay không mà thôi! Qua biến cố Đức Yêsu làm Ladarô sống lại, Thiên Chúa đã khơi bùng lên niềm tin vào Thiên Chúa của dân Ngài. Tin vào Đức Yêsu, người chết có thể sống lại! Bao nhiêu người sống mà như đã chết: buồn bã, không niềm hy vọng, tuyệt vọng trước mọi sự! Đức Yêsu là sự sống lại và là sự sống! Người ta có thể bắt đầu lại! Người ta có thể làm lại cuộc đời! Bao cuộc đời dang dở, bao cuộc đời không còn đáng sống nữa, có thể hồi sinh. Chị phụ nữ tội lỗi trong Lc.7, 36-50 là một ví dụ. Bao nhiêu người mẹ mong chờ con hoang trở về, bao nhiêu người con chờ mong bố hay mẹ trở về, bao nhiêu người vợ mong chồng trở lại, bao nhiêu người chồng mong vợ tỉnh ngộ, nhưng thực tế... như vô vọng! Thiên Chúa có thể biến đổi lòng người! Và chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm được mọi sự! Thiên Chúa mang lại cho con người niềm hy vọng! Chỉ với Thiên Chúa, người ta mới có thể hy vọng được thôi! Đức Yêsu là sự sống lại và là sự sống! 12. Ai tin vào Đức Kitô thì dù đã chết cũng sẽ được sống--Lm. JB. Lê Ngọc DũngTin Mừng hôm nay tường thuật lại việc Chúa Giêsu cho Lazaro sống lại. Ông đã chết bốn ngày rồi, xác đã bốc mùi, nhưng Chúa Giêsu vẫn làm cho ông được sống lại. Nhưng thử hỏi Lazarô có sống mãi không. Lazaro sống lại. Rồi sau đó ông sống được thêm 20, 30, 40 năm nữa rồi ông cũng chết, chứ không sống mãi! Vậy thì, chúng ta hãy thử tìm hiểu ý nghĩa về niềm tin vào Đức Kitô và về sự sống lại trong bài Tin Mừng là như thế nào, trong đó Matta chị của Lazzarô, đã tỏ niềm tin vào sống lại: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại ngày sau hết" (Ga 11,24). Thật ra, tin rằng mình sẽ được sống lại ngày sau hết, cũng chưa phải là điều lạ lùng hay đặc biệt, mà chỉ có Matta tin. Cũng có nhiều người khác, ở những tôn giáo khác họ vẫn tin vào sự sống đời sau, như trong dân gian tin có thiên đàng thưởng kẻ lành, hay trên thiên đình có tiên có Phật. Họ tin rằng có âm phủ địa ngục phạt những kẻ gian ác, có những chảo dầu sôi sùng sục và những con quỷ dữ cầm những chỉa ba ném người ác vào đó để hành hình… Điều quan trọng mà Tin Mừng kêu gọi không phải chỉ là tin chung chung vào cuộc sống đời sau, hay thưởng kẻ lành phạt kẻ dữ như vậy, nhưng là tin vào chính Đức Kitô, vào chính con người cụ thể của Ngài. Ngài nói: "Chính Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin vào Thày thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" và Chúa Giêsu hỏi: "Chị có tin như thế không?". Matta đã thưa: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian" (Ga 11, 25-26). Matta đã tuyên xưng quá tuyệt vời! Đây mới là điều đặc biệt và trổi vượt của niềm tin nơi Matta. Lúc ấy chưa chắc các môn đệ hay các Tông đồ của Chúa Giêsu lại có thể tuyên xưng như vậy. Matta không những tuyên xưng Đức Giêsu là Đấng Kitô mà còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Tuyên xưng Ngài là Đức Kitô, nghĩa là Đấng được xức dầu để cứu Dân Do Thái thì còn có thể tuyên xưng được, nhưng tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa quả là một điều quá sức tưởng tượng đối với người Do Thái. Như chúng ta sẽ thấy, chính Chúa Giêsu bị lên án tử hình vì Ngài nhận mình là Con Thiên Chúa. Trong cuộc xử án, vị thượng tế liền xé áo mình ra và nói: "Hắn nói phạm thượng! Chúng ta cần gì nhân chứng nữa? Đấy, quý vị vừa nghe hắn nói phạm đến Thiên Chúa, quý vị nghĩ sao?" Họ liền đáp: "Hắn đáng chết!" Rồi họ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Người. Có kẻ lại tát Người và nói: "Ông Kitô ơi, hãy nói tiên tri cho chúng tôi nghe đi: ai đánh ông đó?" (Mt 26,65-68). Đến đây chúng ta tự hỏi, vậy tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa trong bối cảnh này có ý nghĩa gì? Có thể nói, đó là tin vào thập giá của Ngài, tin vào một điều vượt quá lý trí của con người bình thường. Vì khi Ngài vừa xác nhận mình là Con Thiên Chúa thì lập tức Ngài bị khạc nhổ vào mặt và bị đấm đánh, tát vào mặt! Sao Con Thiên Chúa lại lạ lùng như vậy, bị hành hạ sỉ nhục như vậy mà không phản ứng lại! Ngài vừa xác nhận mình là sự sống và là sự sống lại với Matta và Ngài cũng đã cho Lazaro sống lại, nhưng rồi chính Ngài lại bị chết thảm thương trên thập giá. Đây quả là một điều quá phi lý đối với lý trí bình thường, vì vừa xác nhận mình là sự sống thì lại bị người ta giết chết một cách dễ dàng. Tin vào Đức Giêsu là Kitô là Con Thiên Chúa thì chúng ta cũng phải tin vào giá trị của những hành vi xem ra trái với lý trí thông thường, hay ngược đời đó. Ngày xưa, thánh Concorđiô bị giam vì đạo. Trong buổi xử án, quan toà hỏi: "Ông là ai? Và người ta gọi ông thế nào?" - "Tên tôi là Kytô-hữu, và người ta gọi tôi là Kytô-hữu". Quan toà tức tối: "Ta không nói chơi đâu. Ta không hỏi ngươi theo đạo nào. Ta chỉ muốn biết tên ngươi mà thôi." Thánh Concordio vẫn thong thả trả lời: - "Tôi đã nói rồi. Tôi là người Kytô-hữu, Tên tôi do Chúa Kitô mà ra. Vì thế, tôi thuộc về Ngài và sống chết, tôi muốn phụng sự Ngài." Quan liền bắt thánh Concorđiô chịu những cực hình ghê rợn. Thánh Concorđiô không nhượng bộ. Trước khi tắt thở, ngài còn nói lên một lần cuối cùng: "Tôi là người Kytô-hữu", nghĩa là, tôi thuộc về Đức Kitô. Thánh Phalô trong thư Roma dạy: "Ai không có thần Khí Đức Kitô thì không thuộc về Đức Kitô. Nhưng nếu Đức Kitô ở trong anh em, thì dẫu cho thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống” (Rm37, 9-10). Tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là dám hy sinh cho tha nhân, như hạt lúa mì rơi xuống đất, chịu mục nát đi để sinh nhiều bông hạt. Tin vào Đức Kitô là sẵn sàng chịu chết đi cho thế gian, để sống trong Thần Khí Chúa. 13. Sống và chết--Lm. Giacôbê Phạm Văn PhượngSống và chết là hai việc hoàn toàn mâu thuẫn, chống đối nhau. Tâm lý con người ai cũng muốn sống và không muốn chết: ham sống sợ chết là tâm lý tự nhiên của con người. Lòng ham sống thúc đẩy con người phải bám vào nhiều thứ, nhất là của cải, tiền bạc, chẳng hạn như ông nhà giàu trong Tin Mừng: thâu hoạch lúa thóc đầy tràn, ông phải xây thêm nhà kho, tự cho đời sống mình như thế thật là bảo đảm, tha hồ ăn chơi sung sướng. Nhưng Chúa bảo ông: thật là hạng khờ dại, vì đêm nay ông chết, của cải có bảo đảm được mạng sống ông không? Ông còn nắm giữ được của cải không? và quả thực ông đã vỡ mộng khi đối diện với cái chết. Mỗi ngày trên thế giới có khoảng 30 ngàn người chết, bao nhiêu người bị Chúa cho là "hạng khờ dại", vì lúc chết, tay buông xuông, người ta không còn có thể bám vào một vật gì cả: "Vua Ngô ba mươi sáu tấn vàng, chết xuống âm phủ chẳng mang được gì". "Trăm năm nào có gì đâu, chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì". "Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy, cảnh phù du trông thấy cũng nực cười". Nếu nghèo là không có, hoặc có rồi mà mất đi, như không có tiền bạc là nghèo vật chất, mồ côi cha mẹ là nghèo tình thương, dốt nát là nghèo về trí thức, bệnh tật là nghèo về sức khỏe, thì cái chết đưa người ta đến cái nghèo cùng cực. Người khoẻ mạnh hay còn trẻ chưa cảm thấy rõ điều này. Nhưng chúng ta cũng biết cái chết nói lên sự bất lực của y khoa, của mọi thứ khả năng tự vệ trên cõi đời này: quyền hành nhất trần gian cũng chết, giàu có nhất nhân loại cũng chết, sung sướng tất cả đời cũng chết. Mọi người đều bó tay trước cái chết. Trước định luật nghiêm khắc ấy, con người lo âu, bồn chồn, và người ta cố níu kéo sự sống lâu chừng nào hay chừng ấy, dẫu vẫn biết là bất lực. Bởi thế mới có những quảng cáo về thuốc "trường sinh" hay "bất tử". Có một câu chuyện như sau: Thời chiến quốc, có một người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc "bất tử". Người ấy mang vị thuốc này vào hoàng cung, viên quan canh cửa quát hỏi: "Vị thuốc này có ăn được không?". Người ấy đáp: "Dạ, ăn được", tức thì viên quan giật lấy vị thuốc và ăn. Truyện đến tai vua, vua truyền bắt viên quan đó đem giết. Viên quan xin vào gặp vua và kêu van rằng: "Tâu hoàng thượng, hạ thần đã hỏi người đem dâng thuốc, người ấy nói: ăn được, nên hạ thần mới dám ăn, thế là hạ thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc, hơn nữa, người đem thuốc nói là thuốc bất tử, ăn vào thì không chết nữa, thế mà hạ thần mới ăn, đã sắp phải chết. Vậy là thuốc tử chứ sao gọi là bất tử được? Hoàng thượng giết hạ thần thực là bắt tội một người vô tội, trong khi thiên hạ dối gạt hoàng thượng mà hoàng thượng vẫn tin". Nhà vua nghe nói có lý nên tha tội chết cho viên quan ấy. Hiện nay các nhà bác học đang cố tìm ra một thứ thuốc làm cho con người khỏi chết. Được chăng? Chúng ta cứ hy vọng. Đó là vấn đề còn trong giả thuyết, nhưng theo Kinh Thánh thì không thể nào có được, vì Chúa đã phán với ông bà nguyên tổ: "ngươi sẽ trở về bụi đất". Từ đó, chết là một định luật Chúa ra cho loài người, loài người không thể phá nổi định luật này. Nói khác đi, con người đã mắc phải một chứng bệnh nan y không thể nào chữa khỏi, đó là bệnh chết. Cái án chết áp dụng cho hết mọi người: hữu sinh hữu tử: có sinh có chết là một điều tất yếu. Nhưng qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Tê-rê-xa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi". Hoặc như thánh Phaolô đã nói: "Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi". Làm thế nào để được như thế? Chúng ta hãy sống theo câu nói của một bà mẹ kia đã khuyên bảo đứa con trai sắp bước vào đời: "Con ơi, ngày con mở mắt chào đời, mọi người đều tươi cười, còn con thì khóc. Con hãy sống thế nào đề ngày cuối đời, một mình con tươi cười, mà mọi người lại tràn lệ". 14. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống--Lm. Antôn Nguyễn Văn ĐộVới Chúa nhật của Niềm Vui (Lætare) vừa qua, màu hồng Phụng Vụ của Giáo hội là màu của bình minh, hé mở ánh sáng huy hoàng của Đại Lễ Phục Sinh sắp tới. Dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết. Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa " (Ga 11, 4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: " Lagiarô đã chết " (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa " (Ga 11, 4). Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư? "(Ga 11, 8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: " Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người " (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: " Lagiarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự song. Niềm hy vọng của chúng ta Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: " Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha " Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống " sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết. Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Ðức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được. Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì " thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi " (Rm 8, 10) nhưng " nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa " Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Ðức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới ". (Rm 6, 4). Thật là đại tin mừng: " Nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: " Đã an táng Lagiarô ở đâu? " Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại. Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21). " Hãy đẩy tảng đá ra " (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52). " Hãy cởi ra cho anh ấy đi "(11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa. Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng Là người thật, Ðức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các người, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ " (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em " (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen. 15. Chúa Kitô là sự sống lại và là sự sống--Lm Antôn Nguyễn Văn ĐộSau khi Giáo hội ngưng nghỉ để (Laetare) chuẩn bị tốt hơn niềm vui Phục Sinh dù còn hai tuần nữa, nhưng niềm vui ấy đã ló rạng trong các bài đọc Chúa nhật hôm nay, tuy không nói về sự sống lại của Chúa Giêsu vì đó là điều tất yếu, nhưng nói về sự phục sinh của chúng ta, chính Chúa Kitô ban cho chúng ta: trỗi dậy từ trong cõi chết. Phục sinh Lagiarô báo trước cái chết của Chúa Giêsu Sự kiện Lagiarô sống lại như một bi kịch giữa Sự Sống và Sự Chết, giữa Đấng được Chúa Cha sai đến là Đức Giêsu Kitô, Chúa của Sự Sống, và thủ lãnh sự chết tiềm ẩn nơi: bệnh tật, cái chết của Lagiarô, cũng như các âm mưu chống lại Chúa Giêsu. Ngay từ đầu, Chúa Giêsu cho thấy những thử thách về bệnh tật của bạn mình, cũng như cái được cái mất trong cuộc thương khó của Ngài: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Chúa Giêsu biết rõ, Lagiarô chết và việc của Ngài nên nói với các môn đệ: "Lagiarô đã chết" (Ga 11, 14). Nhưng Ngài sẽ cho sống lại, vì "sáng danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Đây là phép lạ thứ bẩy và cuối cùng thu hút sự chú ý nhất của dân chúng vào Chúa Giêsu trước khi Ngài bị bắt. Khi loan báo cho các môn đệ biết về ý muốn trở lại Giuđêa của Chúa Giêsu để gặp Lagiarô đã chết, các ông hết sức ngạc nhiên và lo lắng nên nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm ném đá Thầy, mà Thầy lại trở về đó ư?" (Ga 11,8). Quả thật, các nhà lãnh đạo Do thái đã để mất Chúa Giêsu vào dịp này: "Bởi vậy từ ngày đó, họ quyết định giết Người" (Ga 11, 53). Nhưng phản ứng của Chúa Giêsu là: "Ladarô đã chết, chúng ta hãy đi với anh ta" (Ga 11, 15), Ngài sẽ đánh bại sự chết, cứu con người khỏi chết và ban cho sự sống. Niềm hy vọng của chúng ta Trọng tâm của Tin Mừng hôm nay là câu: "Ta là sự sống và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ "(Ga 11, 25-26). Nếu chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, Chúa Cha "Đấng đặt Thánh Thần của Ngài trong chúng ta, và chúng ta đang sống" sự sống của Người (Ez 1, 13) thì chúng ta sẽ được Thiên Chúa cho sống lại ngày sau hết. Chúa cho Lagiarô sống lại như Ngài đã làm cho con gái ông Giairô, con trai của bà góa thành Naim trở lại sự sống tự nhiên lần thứ hai trong một thời gian ngắn. Trái lại, "Đức Kitô sống lại từ cõi chết, không còn chết nữa, sự chết không còn bá chủ được Ngài nữa" (Rm 6, 9) vì Ngài sống sự sống của Thánh Thần Thiên Chúa. Nhưng "nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần Người ngự trong anh em" (Rm 8,11). Sao chúng ta không thể hy vọng được. Phần lớn chúng ta mong đợi trở lại cuộc sống tự nhiên. Chắc chắn chúng ta sẽ chết, bởi vì "thân xác chúng ta đã chết vì tội lỗi" (Rm 8, 10) nhưng "nếu Đức Kitô ở trong chúng ta" và chúng ta ở trong Ngài với đức tin sống động, thì linh hồn chúng ta sẽ sống bằng sự sống của Thiên Chúa và được tham dự vào sự bất tử của Ngài. Hơn nữa: chúng ta tin vào phép rửa "Vậy nhờ thanh tẩy, ta đã được mai táng làm một với Ngài trong sự chết, ngõ hầu như Đức Kitô, nhờ bởi vinh quang của Cha, mà được sống lại từ cõi chết, thì cả ta nữa, ta cũng bước đi trong đời sống mới". (Rm 6, 4). Thật là đại tin mừng: "nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại. Và sự sáng rạng trong tối tăm, và tối tăm đã không tiêu diệt được sự sáng" (Ga 1, 4-5). Nếu như tác giả Tin Mừng đã hai lần thuật lại điều Martha và Maria than với Chúa về đau khổ của hai bà: "Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết", há không phải muốn nhấn mạnh rằng, từ nay, tiếng khóc không còn nữa đó sao? Chúa Giêsu thổn thức và xúc động. Người hỏi: "Đã an táng Lagiarô ở đâu?" Nước mắt Chúa như mưa, Lagiarô như hạt giống, và ngôi mộ như một thửa đất. Chúa Giêsu hô lớn tiếng, tiếng Ngài làm cho sự chết run sợ, Lagiarô đã bung lên như hạt giống, anh bước ra khỏi mồ và tôn thờ Đấng đã cho anh sống lại. Mãnh lực của sự chết đã thống trị Lagiarô bốn ngày. Chúa Giêsu đã đánh bại sự chết ngày thứ ba, đúng như lời Ngài đã hứa rằng, Ngài sẽ sống lại ngày thứ ba sau khi chết (x. Mt 16, 21) "Hãy đẩy tảng đá ra" (11, 39). Cái gì vậy, Đấng đã làm cho kẻ chết sống lại, nay không thể mở cửa mồ hay phán một lời để di chuyển tảng đá đóng cửa mồ hay sao? Chắc chắn, Ngài có thế khiến tảng đá lăn ra khỏi mồ bằng lời Ngài phán, khi Ngài bị treo trên thập giá, Ngài đã từng chẻ đôi tảng đá và mở tung các cửa mồ (Mt 27,51-52). "Hãy cởi ra cho anh ấy đi" (11, 44). Chúa bảo người chung quanh cởi cho anh để họ nhận ra chính anh là người họ đã bọc vào trong khăn an táng, thân xác đã phân hủy, nay sống lại nhờ quyền năng Chúa. Hình ảnh báo trước và là lời hứa phục sinh cho các dự tòng Là người thật, Đức Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ. (Kinh Tiền Tụng). Hôm nay Chúa cũng tuyên bố: " Ta là sự sống lại và là sự sống" và hỏi "Con có tin điều đó không?" Cùng với Martha chị của Lagiarô các anh chị em dự tòng thưa: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian” (Ga 11,). Chúa phục sinh Lagiarô là hình ảnh báo trước sự phục sinh cho các dự tòng là những người mong đợi trong Đêm Vọng Phục Sinh. Khi dìm mình trong nước nước Rửa tội, người dự tòng được giải thoát khỏi sự chết và sống lại với Chúa Kitô. Sự sống lại này, như lời tiên tri Êgiêkiêl: "Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngườ, Ta sẽ kéo các người ra khỏi mồ" (Ez 37, 12-14). "Ta đặt thần khí ta vào tâm hồn anh em" (Ez 37, 6): nhờ Phép Rửa tội, Thần Khí Đức Kitô ngự vào trong chúng ta (Rm 8, 8-11), Thần Khí kết hợp người chịu phép rửa trong tình yêu của Chúa Cha và Chúa Con; khi đón nhận, chúng ta được tham dự vào tình yêu này của Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen. 16. Ta là sự sống lại và là sự sống--Lm Đan VinhHỌC LỜI CHÚA Ý CHÍNH: Đức Giê-su đến làng Bê-ta-ni-a thì La-da-rô đã chết và chôn được bốn ngày. Gặp Mác-ta và Ma-ri-a là chị người chết đang khóc thương em, Đức Giê-su đã trấn an họ rằng: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (25). Khi ra thăm mộ của La-da-rô, Đức Giê-su đã cầu nguyện với Chúa Cha rồi truyền cho La-da-rô ra khỏi mồ (43) và người chết liền trỗi dậy đi ra ngoài. Qua phép lạ phục sinh La-da-rô này, Đức Giê-su đã mặc khải Người chính là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống. Người sẽ ban sự sống và sự sống lại muôn đời cho những ai đặt trọn niềm tin nơi Người. CHÚ THÍCH: - C 1-5: + La-da-rô: là tên của người bạn thân với Đức Giê-su, ở làng Bê-ta-ni-a (x. Ga 11,3). Ngoài La-da-rô này, cũng còn một người khác làm nghề ăn xin cũng tên là La-da-rô trong Tin Mừng Lu-ca (x. Lc 16,20). + Bê-ta-ni-a: Là một làng nằm ở phía Đông núi Cây Dầu, cách Giê-ru-sa-lem khoảng ba cây số (x. Ga 11,18). Đức Giê-su thường đến trọ tại làng này mỗi khi có dịp lên Giê-ru-sa-lem. Ngoài ra, còn một Bê-ta-ni-a khác là nơi Đức Giê-su chịu phép rửa (x. Lc 16,20). + Mác-ta: là chị lớn trong ba chị em. Bà có tính tình năng nổ hướng ngoại, thể hiện khi đón tiếp Đức Giê-su (x. Lc 10,38-42). + Ma-ri-a: là em của Mác-ta, có tính trầm lặng hướng nội, sẵn sàng hy sinh bình dầu thơm quý giá để xức chân Người (x. Ga 12,1-8). Theo phần lớn các nhà chú giải Thánh Kinh: Cần phân biệt cô Ma-ri-a này với nhiều người khác cũng tên Ma-ri-a như: người đàn bà tội lỗi (x. Lc 7,36-50), người phụ nữ ngoại tình (x. Ga 8,3-11), nữa Ma-ri-a Ma-đa-lê-na được trừ khỏi bảy quỷ ám (x. Lc 8,2). - C 6-16: + Mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy: Các môn đệ mang tâm trạng sợ hãi vì ý thức nguy hiểm: Thầy có thể bị kẻ thù giết hại tại Giê-ru-sa-lem. + Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao?: Đức Giê-su quyết tuân theo chương trình Chúa Cha đã truyền. + La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc. Tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây: Đức Giê-su dùng chữ “ngủ” để ám chỉ cái chết, giống như trường hợp của con gái ông Gia-ia (x. Mc 5,39). Thánh Phao-lô cũng coi cái chết chỉ là một giấc ngủ (x. 1 Tx 4,14), là một bước phải vượt qua đến sự sống lại (x. Ep 5,14). + Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin: Đức Giê-su mừng vì môn đệ sắp được dịp chứng kiến Người truyền cho La-da-rô sống lại, để các ông vững tin nơi Người. - C 17-27: + Khi đến nơi, Đức Giê-su thấy anh La-da-rô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi: Theo phong tục người Do thái thì người chết thường được chôn ngay trong ngày vừa chết (x. Cv 5,6). Người Do thái tin rằng trong ba ngày đầu, hồn vía người chết còn lảng vảng gần xác chết. Sang ngày thứ tư khi xác thối rữa, nó mới tan đi. Con số bốn ngày ở đây như muốn nói La-da-rô đã chết thật sự. + Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết: Thời Cựu Ước, nhiều người tin có sự kẻ chết sống lại (x Đn 12,2-3; 2 Mcb 7,23). Đến thời Đức Giê-su, nhóm Pha-ri-sêu cũng tin như vậy, nhưng nhóm Xa-đốc thì không tin (x Cv 23,8). Riêng Mác-ta tuy tin kẻ chết sẽ sống lại trong ngày tận thế như nhóm Pha-ri-sêu, nhưng vẫn muốn Đức Giê-su làm phép lạ cho em được sống lại ngay lúc này. + Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống: Đức Giê-su là sự sống phát xuất từ Chúa Cha (x. Ga 5,26). Người làm cho những kẻ tin Người được sống đời đời (x. Ga 5,24-25). Người cũng sẽ ban cho những kẻ tin được sống lại vào ngày cánh chung, dù xác của họ có bị tiêu hủy cũng sẽ được sống lại (x. Ga 5,28-29). + Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian: Mác-ta tuyên xưng Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai (x. Ga 1,19). - C 28-37: + Thấy cô khóc, và những người Do thái đi với cô cũng khóc, Đức Giê-su thổn thức trong lòng và xao xuyến: Theo thói tục của người Do thái, khi có khách đến viếng xác, thì người nhà bật khóc to, và khách cũng tự nhiên phát khóc lên theo. - C 38-44: + Đức Giê-su thổn thức trong lòng: Trước sự đau khổ của tang gia, Đức Giê-su có thái độ cảm thông đầy tình người. Nhưng thực ra nguyên nhân sâu xa khiến Đức Giê-su khóc một phần còn vì sự cứng lòng tin của những người Do thái hiện diện (37) và còn vì niềm tin nửa vời của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a nữa (39). + Đem phiến đá này đi: Phần mộ của người Do thái giàu có thường khoét vào núi đá. Sau khi tắm rửa, xác chết được xức thuốc thơm, cột lại bằng giây băng vài và phủ khăn liệm, đưa vào mồ chôn cất rồi lấp ngòai cửa mồ bằng một tảng đá lớn, như hai môn đệ đã an táng Đức Giê-su sau này (x Ga 19,40-42). + Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày: Tuy Mác-ta vừa tuyên xưng đức tin, nhưng vẫn nghi ngờ Ngừơi có thể làm cho La-da-rô sống lại. + Chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?: Vinh quang ở đây là quyền năng Thiên Chúa tỏ hiện qua việc người sắp cho La-da-rô từ cõi chết sống lại. + Đức Giê-su ngước mắt lên và nói: “Lạy Cha, con cảm tạ Cha, vì Cha đã nhậm lời con": Người Do thái khi cầu nguyện thì quay mặt về hướng Đền thờ Giê-ru-sa-lem. Còn ở đây Đức Giê-su lại ngước nhìn lên trời. Đây sẽ là lối cầu nguyện của các Ki-tô hữu sau này. + Người kêu lớn tiếng: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ!": Đức Giê-su ra lệnh cho người chết sống lại. Điều đó cho thấy Người có quyền trên sự chết. + Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi: La-da-rô sau khi sống lại phải được người khác cởi khăn và vải liệm. Trái lại, Đức Giê-su sau khi phục sinh, những băng vải vẫn còn để lại trong mồ và khăn che đầu Người cũng được cuốn lại và xếp để riêng ra một nơi (x. Ga 20,5-7). CÂU HỎI: 1) Ma-ri-a Bê-ta-ni-a có phải là người đàn bà tội lỗi, người phụ nữ ngoại tình sắp bị ném đá hay bà Ma-ri-a Ma-đa-le-na hay không? 2) Đức Giê-su nói La-da-rô đang yên giấc là muốn ám chỉ điều gì? Hai trường hợp khác tương tự là những trường hợp nào? 3) Theo phong tục Do Thái thì người chết được chôn vào thời điểm nào? Ở đây việc La-da-rô được chôn bốn ngày rồi mang ý nghĩa gì? 4) Thời Đức Giê-su, niềm tin về việc kẻ chết sống lại giữa hai phái Xa-đốc và Biệt phái khác nhau ra sao? 5) Tại sao Đức Giê-su lại thổn thức trong lòng và xao xuyến khi thấy Mác-ta và người đi theo cô khóc? 6) Khi nói: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày" Mác-ta có hòan tòan tin vào quyền năng phục sinh kẻ chết của Đức Giê-su không? 7) Ngày nay các tín hữu hướng về đâu khi cầu nguyện? Tại sao? 8) Tình trạng của La-da-rô sau khi được Đức Giê-su cho sống lại khác với tình trạng sống lại của Đức Giê-su thế nào? II. SỐNG LỜI CHÚA 1. LỜI CHÚA: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống” (Ga 11,25). 2. CÂU CHUYỆN: SỐNG LẠI THẬT VỀ PHẦN LINH HỒN: SI-TA ĐE-LI vốn là một kẻ chuyên quậy phá kẻ khác. Anh đã nhiều lần vào tù ra khám vì tội phá phách cướp giựt. Trong phiên tòa lần thứ năm, quan tòa đã phải tuyên bố như sau: “Có phạt anh thêm nữa cũng vô ích! Nhưng chúng tôi vẫn phải cách ly anh. Chúng tôi đã làm hết cách. Quả thật chúng tôi đã hoàn toàn thất vọng về anh”. Vào tù lần này, ĐE-LI lại ngựa quen đường cũ: có những hành vi vô kỷ luật và đàn áp bạn tù yếu thế hơn mình, nên anh đã bị biệt giam trong hai tuần lễ. Nhưng một phép lạ đã xảy ra: Khi đang phải nằm thu mình trong một căn hầm chật hẹp tăm tối, nằm trên nền đá ẩm mốc hôi hám, ĐE-LI đã có dịp suy nghĩ và nhớ lại những lỗi lầm đã phạm. Vốn là con một trong gia đình giàu có, được cha mẹ cho đi học, nhưng anh lại lười biếng và ăn cắp tiền của cha mẹ rồi sau đó bỏ nhà đi hoang. Từng được nhà trường đánh giá là một học sinh thông minh giàu sáng kiến và chỉ có thói xấu ham vui. Vậy tại sao anh lại không sử dụng những tài năng đó để làm việc tốt hữu ích cho tha nhân, mà lại bỏ nhà ra đi và phải mang thêm tội đàn áp bóc lột kẻ khác? Rồi sau đó anh bắt đầu có những giấc mơ đẹp về Đức Giê-su, mà anh đã từng biết khi theo học khóa giáo lý vỡ lòng. Dường như anh thấy Đức Giê-su đang âu yếm nhìn anh và mời anh đi theo Người. Rồi hình ảnh những người từng bị anh gây thương tích lần lượt hiện ra trong tâm trí anh. Tự nhiên anh cảm thấy một tình cảm dào dạt với họ. Chính tình thương ấy đã tắm mát và chữa lành những vết thương trong tâm hồn sơ cứng của anh. Cảm nghiệm ấy đã dần dần biến đổi anh nên một người mới đầy tràn tình yêu của Đức Giê-su. Sau hai tuần lễ, ĐE-LI được ra khỏi ngục biệt giam và trở lại phòng giam thường phạm. Anh không còn thái độ bắt nạt bạn tù, trái lại còn sẵn sàng bênh vực những kẻ thân yếu thế cô. Anh xin cha tuyên úy nhà giam theo học lớp Thánh Kinh hằng tuần. Anh trở thành người học trò chăm chỉ và xuất sắc nhất trong đám bạn tù. Mấy năm sau, khi được mãn hạn tù, anh đã trở thành chủ tịch hội “Cải cách chế độ lao tù”. Khi nói về anh, cha tuyên úy nhà lao đã nói: “Si-ta Đe-li là một phép lạ sống động mới xảy ra: Không những anh là một tội nhân được ơn sám hối, mà còn thực sự trở nên một tạo thành mới, một tín hữu tốt lành thánh thiện và là môn đệ đích thực của Chúa Giê-su”. 3. SUY NIỆM: 1) “Đức Giê-su là sự sống lại và là sự sống”: La-da-rô và hai người chị Mác-ta, Ma-ri-a là bạn thân của Đức Giê-su tai làng Bê-ta-ni-a. Nhà của họ là nơi Đức Giê-su và các môn đệ của Người ở trọ mỗi lần các ngài đi lên Giê-ru-sa-lem. Với tình bạn thâm giao ấy, khi La-da-rô bị bệnh nặng, Mác-ta đã vội sai người nhà đi báo tin cho Đức Giê-su biết. Nhưng Đức Giê-su lại cố ý trì hoãn không đến ngay vì Người muốn dùng sự kiện này để chứng minh Người “là sự sống lại và là sự sống”, nên đã nói với các môn đệ: “La-da-rô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin” (Ga 11,14-15). 2) Về đức tin của hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a: Qua Tin Mừng hôm nay, chúng ta thấy về hai cách biểu lộ đức tin như sau: - Về đức tin tuyên xưng ngoài môi miệng của Mác-ta: Vừa được tin Đức Giê-su đến, cô Mác-ta liền ra đón Người. Cô nói với Đức Giê-su: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Nhưng bây giờ con biết: “Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Đức Giê-su nói: “Em chị sẽ sống lại!” Cô Mác-ta thưa: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết”. Đức Giê-su liền phán: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?” Cô Mác-ta đáp: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian (Ga 11,20-27). Tuy nhiên đức tin thể hiện bằng lời nói của Mác-ta vần chưa phải đức tin vững mạnh: Khi đến trước mộ của La-da-rô, Đức Giê-su nói: “Đem phiến đá này đi”. Cô Mác-ta là chị người chết liền nói: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày”. Đức Giê-su bảo: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11,39-40). - Về đức tin cậy trông tín thác vào Đức Giê-su của Ma-ri-a: Cô Ma-ri-a thì tin mạnh mẽ vào Đức Giê-su thể hiện qua như sau: Nghe tin Thầy đến, cô Ma-ri-a “vội đứng lên và đến với Đức Giê-su”. Vừa thấy Người, cô liền phủ phục dưới chân và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết” (Ga 11,29.32). Đức tin của Ma-ri-a thể hiện qua thái độ cậy trông vào quyền năng và tình thương của Thầy nên không nói nhiều mà chủ yếu là thái độ yên lặng, hoàn toàn tin tưởng phó thác để Thầy toàn quyền định liệu. Chính nhờ biết ngồi bên chân Chúa mà nghe lời Người đã giúp Ma-ri-a đạt tới đức tin cậy trông tín thác vào Chúa Giê-su (x. Lc 10,38-40). 3) Sống đức tin cụ thể hôm nay: - Hãy trở thành ngôn sứ của sự sống, tình thương và niềm vui: Trong sứ điệp ngày Giới Trẻ Thế Giới năm 1996, Đức Gio-an Phao-lô II đã khuyên các bạn trẻ như sau: “Hãy trở nên những ngôn sứ của sự sống và tình thương, những ngôn sứ của niềm vui. Hiện nay tuy nhân loại ngày càng văn minh hơn. Nhưng vẫn có nhiều bóng tối của sự chết như: chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, si-đa, ám sát, đặt mìn, tai nạn giao thông… Những cái chết về thể xác phản ảnh một cái chết nguy hiểm hơn. Đó là cái chết của Tình Yêu trong lòng con người! Cái chết ấy sẽ thắng thế khi con người sống buông thả, chán chường và khép kín trong sự ích kỷ. Nhưng chúng ta có Đức Giê-su là “Sự Sống Lại và là Sự Sống”. Một khi chúng ta liên kết mật thiết với Người, chúng ta cũng có thể thông truyền sự sống, tình thương và niềm vui cho thế giới, giống như Đức Giê-su xưa đã trả lại sự sống cho La-da-rô và lau khô giọt lệ cho hai chị em Mác-ta và Ma-ri-a… Ki-tô hữu phải sẵn sàng lao tới bất cứ nơi đâu có những anh em cần được giúp đỡ, những nơi có những giọt nước mắt cần được lau khô, những nơi có những lời cầu cứu đang mong chờ được đáp ứng”. - Đức tin thực sự phải thể hiện qua hành động cậy trông yêu mến: Thánh Gia-cô-bê đã đề cao đức tin tín thác và hành động chia sẻ như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được không? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14-17). 4. THẢO LUẬN: Chúng ta cần phải làm gì để trở thành Ngôn Sứ của Sự Sống, sẵn sàng chia sẻ sự sống của Chúa cho đồng bào Việt Nam, cho những người bệnh tật đau khổ đang sống chung quanh chúng ta? 5. NGUYỆN CẦU: - Lạy Chúa Giêsu. Hôm nay chúng con chưa chết nên không xin Chúa cho sống lại về phần xác, nhưng chúng con xin Chúa ban cho chúng con sống lại thật về phần linh hồn: để không những chiến thắng kẻ thù cuối cùng là sự chết, mà còn tiêu diệt những nguyên nhân dẫn tới cái chết như tham lam tiền bạc, ham mê rượu chè, chích hút và những đam mê bất chính khác… Xin cho chúng con thắng vượt sự thất vọng, buồn chán, sống không lý tưởng… - Lạy Chúa. Xin giúp chúng con biết tôn trọng sự sống nơi bản thân và gia đình con. Xin cho chúng con biết bảo vệ môi trường sống, và luôn sống kết hiệp với Chúa Thánh Thể là Nguồn Sống Mới. Xin cho chúng con biết siêng năng đón nhận Lời Chúa và Thánh Thể mỗi ngày để chúng con luôn có sự sống của Chúa nơi chúng con, và ngày sau chúng con cũng được sống mãi trong cuộc sống vĩnh hằng. X) Hiệp cùng Mẹ Maria.- Đ) Xin Chúa nhậm lời chúng con. 17. Khát sống--Lm Ignatiô Trần NgàCon người có nhiều cơn khát: Khát tiền, khát danh vọng, khát quyền lực, khát tình yêu, khát hạnh phúc… Và trong hàng loạt cơn khát đó, thì khao khát được sống là cơn khát mãnh liệt nhất, thúc bách nhất, khẩn thiết nhất. Để đáp ứng khao khát này, người ta sẵn sàng lao động vất vả, chấp nhận muôn vàn hy sinh gian khổ để nuôi sống mình, để vun đắp cho đời sống mình được sung túc hơn. Rồi khi sự sống bị đe dọa trầm trọng bởi bệnh tật, như bị ung thư chẳng hạn, người ta sẵn sàng bán hết tất cả những gì mình có để chạy chữa đến cùng, hễ còn nước thì còn tát… Vì quý trọng mạng sống nên từ cổ chí kim, không ai trên đời chịu đem mạng sống mình để đổi lấy trân châu bảo ngọc hay phú quý giàu sang hoặc quyền cao chức trọng... Sự sống luôn luôn là trên hết. Tuy nhiên, đời sống con người cũng như bông hoa sớm nở chiều tàn, như bóng đèn hiu hắt trước gió… Dù ta có tiếc nuối, có kìm giữ, có níu kéo cách nào đi nữa, cũng không thể giữ lại sự sống cho mình. Đến ngày, đến hạn, nó sẽ ra đi. Vì thế, mọi người đều nơm nớp lo sợ thời khắc định mệnh ấy, lo sợ ngày tang tóc ấy, không biết sẽ chụp xuống lúc nào. Thần Chết như đang lởn vởn, rình rập đâu đây, sẽ vung lưỡi hái ra tước đoạt mạng sống người ta bất cứ lúc nào! Hy vọng đã bừng lên Thế rồi, một niềm vui và hy vọng đã bừng lên: Giữa khung trời u tối và tang tóc vì sự sống sẽ mất đi và sự chết đang bao trùm ấy… bỗng lóe lên một tia chớp hy vọng, hy vọng được cứu sống. Qua việc làm cho La-da-rô, một thanh niên đã chết bốn ngày, mùi tử khí đã xông lên nồng nặc, được sống lại và trở về với cuộc sống, Chúa Giê-su mang đến nhân loại một tin vui, tin vui đó là Ngài sẽ ban lại sự sống cho những ai lìa trần và không chỉ ban cho họ sự sống đời này mà thôi, nhưng còn ban sự sống vĩnh cửu đời sau. Ngài khẳng định điều đó với cô Mác-ta: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 11, 25). Thế là nhờ Chúa Giê-su, bóng đêm sự chết không còn bao phủ địa cầu. Ngài đến xé tan màn đêm sự chết, tiêu diệt thần chết và ban lại sự sống cho những ai tin vào Ngài. Thế thì từ đây, nhân loại nắm được một bí quyết rất đỗi tuyệt vời để dành lại sự sống và đạt tới sự sống đời đời, đó là TIN vào Chúa Giê-su. Thế là từ đây, ước mơ cao cả nhất, khát vọng lớn lao mãnh liệt nhất của con người đã được Chúa Giê-su đáp ứng. Muốn được thoát chết và được sống muôn đời muôn kiếp với Thiên Chúa trên thiên đàng, thì mỗi người phải TIN vào Chúa Giê-su, nhưng không phải là tin suông, vì tin mà không có hành động kèm theo thì vô nghĩa; Ai thực sự tin Chúa Giê-su thì phải thực hành giáo huấn của Ngài, noi gương bắt chước Ngài và sống như Ngài đã sống. Lạy Chúa Giê-su là nguồn ban sự sống cho trần gian, Không gì trên đời quý bằng được sống. Không gì đáng khao khát cho bằng sự sống đời đời. Xin cho chúng con luôn kết hợp với Chúa cách mật thiết, như bàn tay kết hợp với thân mình… để được đón nhận sự sống đời đời do Chúa truyền ban và kiên quyết không bao giờ phạm tội trọng để khỏi đánh mất sự sống muôn đời. Amen. 18. Nối kết với Chúa Giêsu là Nguồn ban Sự Sống--Lm Ignatiô Trần NgàSự sống vô cùng quý báu Mạng sống hơn đống vàng. "Thà là một con chó (đang) sống còn hơn là một con sư tử chết." (nhà văn Jack London) Ai cũng khao khát sống, sống lâu sống khoẻ, trẻ mãi không già. Người ta mưu cầu sự sống bằng đủ mọi cách, với bất cứ giá nào. Nếu có phương thuốc trường sinh, thì dù phải mua với giá cao ngất, thậm chí phải bán cả gia tài mới đủ, người ta cũng quyết mua cho bằng được. Thế nhưng, cuộc sống lại quá mỏng giòn Thực tế cho thấy cuộc sống hiện tại thật mỏng giòn, mong manh, tạm bợ. Như quả bóng bóng xà phòng do một em bé thôi lên, trông long lanh hấp dẫn, óng ánh muôn màu. Nhưng rồi, bụp một cái! Nó tan biến hết, chẳng còn gì! Vì thế mà một nhà thơ Việt nam, ông Nguyễn công Trứ than rằng: "Ôi, nhân sinh là thế, như bóng đèn, như mây nổi, như gió thổi, như chiêm bao..." * * * Cái chết của Ladarô nói lên thân phận mong manh kiếp người Cuộc đời của Ladarô cũng mong manh như thế. Đang nửa chừng xuân, đang tuổi còn dồi dào sức sống, Ladarô vội vã từ giã cuộc đời, để lại vô vàn đau thương tiếc nuối cho thân nhân cũng như bè bạn. Đó là một mất mát vô cùng lớn lao mà không gì trên đời bù đắp nổi. Mất gì người ta cũng có thể kiếm lại được và có thể tậu lại cái mới tốt hơn; còn mất mạng sống là mất tất cả và dường như chẳng còn cách nào phục hồi lại được! Chính vì thế mà khi Lagiarô chết đi, bà con họ hàng vô cùng thương tiếc. Cho dù Lagiarô đã an nghỉ trong mộ bốn ngày rồi mà hai người chị là Matta và Maria vẫn còn ngậm ngùi thổn thức... Ngay cả Chúa Giêsu khi đến thăm mộ cũng không cầm được nước mắt trước cái chết của người thanh niên còn xuân trẻ nầy. Khát vọng lớn nhất của nhân loại là khát sống. Cho dù cuộc sống hôm nay chỉ là tạm bợ, nay có mai không, có nhiều đắng cay cơ cực, có nhiều vất vả muộn phiền, nhưng ai ai cũng khát khao được sống. Chúa Giêsu đem lại sự sống đời đời cho nhân loại Vậy phải tìm đâu cho có sự sống lâu bền? Phải làm gì để biến đổi đời sống mau qua trở thành vĩnh cửu? Qua Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chỉ cho chúng ta bí quyết. Ngài tỏ cho Matta và Maria biết bí quyết nầy: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống". Nếu chỉ nói suông thì lời nói đó chẳng có giá trị gì. Điều quan trọng là lời khẳng định của Chúa Giêsu được củng cố bằng sự việc kèm theo. Dù Lagiarô đã chết và được mai táng trong mộ bốn ngày rồi, thân xác bắt đầu sình lên và đã nặng mùi, thế mà khi Chúa Giêsu kêu gọi: "Lagiarô, hãy ra đây!" thì người chết bắt đầu vươn vai chỗi đậy, bước ra khỏi mồ theo lời Chúa truyền dạy trước sự kinh ngạc của những người chứng kiến, trước sự hoan hỉ khôn tả của thân nhân họ hàng. Sự kiện Chúa Giêsu làm cho Lagiarô sống lại, kèm theo sự kiện chính Ngài đã tự mình sống lại sau khi đã chết trên thập giá và mai táng trong mồ... chứng tỏ rằng Ngài là Đấng hằng sống và có thể ban sự sống cho mọi người. Hãy kết nối với Chúa Giêsu để nhận được sự sống đời đời Chúa Giêsu là Nguồn ban sự sống. Muốn sống đời đời thì hãy nối kết với Chúa Giêsu. Bóng đèn muốn được toả sáng thì phải được nối kết với nguồn điện. Cành nho muốn được trổ sinh hoa trái phải được tháp nhập vào thân nho. Bàn tay muốn sống còn và hoạt động thì phải liên kết với cơ thể. Con người muốn được sống dồi dào và vĩnh cửu thì phải nối kết với Nguồn ban sự sống là Chúa Giêsu. * * * Lạy Chúa Giêsu, qua bí tích Rửa Tội, Chúa đã nối kết chúng con nên một với Chúa, để được trở thành chi thể của Chúa. Qua bí tích Thánh Thể, Chúa Giêsu cho chúng con được trở nên đồng huyết nhục với Chúa và từ đó, sự sống thần linh của Chúa được thông truyền cho chúng con. Tiếc thay, khi phạm tội trọng, chúng con đã tự cắt lìa mình ra khỏi Chúa như cành nho lìa thân nho, như bàn tay bị cắt lìa khỏi cơ thể và như thế chúng con đánh mất sự sống đời đời. Xin cho chúng con sớm giao hoà với Chúa qua bí tích Giải Tội, để được nối kết lại với Chúa và để cho sự sống thần linh của Chúa tiếp tục thông truyền cho chúng con. 19. Sự sống--Lm. Giuse Trần Việt HùngSự sống là một mầu nhiệm. Tạo hóa trao ban sự sống cho mọi loài: Thực vật, động vật và loài người. Khí thở là nguồn của sự sống. Mọi loài sống đều cần có không khí để hít thở và nuôi dưỡng. Sự sống di động trong toàn thân. Trong thân thể con người, khi hơi thở và máu huyết ngưng đọng, con người sẽ chết. Mỗi người đều có một sự sống riêng biệt. Sự sống nơi mỗi người có thể kéo dài cả trăm năm và cũng có thể tan bay trong khoảnh khắc. Sư sống dài hay ngắn không quan trọng bằng sống cho có ý nghĩa và hữu ích. Thiên Chúa là chủ tể của sự sống. Sự sống tiếp nối sẽ không bị tiêu diệt, chỉ có xác thể sự sống bị chết. Tiên tri Edêkien đã viết: Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta và các ngươi sẽ được sống, Ta sẽ cho các ngươi an cư trên đất các ngươi, và các ngươi biết rằng: Ta là Chúa, chính Ta đã phán và đã thi hành (Ez 37, 12-14). Thiên Chúa là Chúa và là tác giả của mọi sự sống. Con người không thể sáng tạo sự sống mà chỉ bắt chước và tạo môi trường để sự sống phát triển. Dựa vào các diễn tiến của sự sống tự nhiên, các nhà khoa học đã tìm hiểu nguyên nhân, cách kết cấu và sự vận hành phát triển của các tế bào để tạo cơ hội phát triển. Khoa học hiện nay có thể giúp kéo dài sự sống nơi con người như lắp ghép tim, gan, thận, xương hay tiếp máu và thay máu. Có nghĩa là khi con người còn có hơi thở sự sống, cho dù sức yếu, các nhà chuyên môn có thể tiếp giúp tăng cường và kéo dài sự sống. Nhưng một khi sự sống đã ngừng, trái tim ngưng đập, ngưng thở, óc chết và các tế bào ngừng hoạt động và sự chết đến, con người đành bó tay. Trong một khoảng thời gian ngắn nào đó, sau khi chết, một số cơ phận trong con người có thể được xử dụng ngay để phẫu thuật ghép. Một số trường hợp, các bác sĩ có thể dùng một số cơ phận của những người mới qua đời để lắp ghép cho các bệnh nhân cần. Người đã chết không thể trở lại với cuộc sống. Họ vĩnh biệt ra đi. Bài phúc âm hôm nay kể câu chuyện dài nói về sự kiện Chúa Giêsu cho ông Ladarô đã chết và chôn trong mồ bốn ngày được sống lại. Chúa Giêsu tỏ uy quyền trên sự sống. Diễn tiến của câu chuyện có nhiều chi tiết rất tỉ mỉ. Chúa dự phòng sự việc Chúa sẽ thực hiện tại Bethania, Chúa nói: Nhưng Ta mừng cho các con, vì Ta không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta đi đến với anh ấy (Ga 11, 15). Khi nghe tin Ladarô đau bệnh thập tử nhất sinh, Chúa Giêsu còn lưu lại nơi Chúa đang giảng dậy ít ngày nữa. Chúa dùng cơ hội này để tỏ uy quyền Thiên Chúa và mạc khải về sự sống và sự sống lại. Đây là một đề tài đức tin chính yếu và rất quan trọng. Chúa đã mạc khải một cách tiệm tiến dựa vào lòng tin yêu của con người. Chúa Giêsu nói: Em con sẽ sống lại (Ga 11, 23). Trước khi làm phép lạ vĩ đại này, Chúa Giêsu đã khơi niềm tin: Chúa Giêsu nói: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta, dầu có chết cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Dầu có chết cũng sẽ được sống, lời nói như một mệnh lệnh và một sự xác tín trong niềm tin. Chị em Martha và Maria, các tông đồ và những người đi theo Chúa vẫn như còn trong mơ. Sự việc Chúa sắp thực hiện hoàn toàn vượt ngoài sức tưởng tượng của con người. Người chết chôn bốn ngày thì xác đã thối rữa rồi. Sự sống mà Chúa ban lại cho ông Ladarô là sự sống mới trong thân xác đã chết. Nói rồi, Người kêu lớn tiếng: “Ladarô! Hãy ra đây!”(Ga 11, 43). Và kìa, lời quyền năng đã thành hiện thực: Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải, trên mặt còn quấn khăn liệm. Chúa Giêsu bảo: “Hãy cởi ra cho anh ấy đi” (Ga 11, 44). Ông Ladarô đã sống lại và đi ra khỏi mồ. Ông đã sống thêm được một khoảng thời gian trên dương trần, nhưng ông cũng đã chết theo luật tự nhiên. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ sự sống. Muốn bước vào sự sống vĩnh cửu thì mỗi người đều phải bước qua ngưỡng cửa sự chết. Đây là vấn đề hoàn toàn của niềm tin. Chúng ta không thể lý luận và đưa ra chứng cứ cụ thể. Tin rằng con người phải trải qua sự chết mới được vào cõi sống. Thân xác này sẽ trở về cát bụi trong lòng đất và hồn thiêng sẽ tiếp tục sống chờ đợi ngày được sống lại kết hợp cả hồn và xác để hưởng hạnh phúc bất diệt. Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh hạt lúa mì gieo xuống đất: Thật, Thầy bảo thật anh em, nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác ((Ga 12, 24). Niềm tin vào Đức Kitô là niềm tin hy vọng tuyệt đối. Từ bao đời, đã có biết bao thế hệ con người đã qua đi. Thân xác bị hủy diệt và trở về tro bụi. Thánh Phaolô tông đồ đã xác tín với chúng ta về Tin mừng cứu độ nơi Chúa Kitô, ngài nói: Nhưng nếu Chúa Giêsu Kitô ở trong anh em, cho dù thân xác đã chết vì tội, nhưng tinh thần vẫn sống vì đức công chính (Rm 8, 10). Con người có linh hồn và thể xác. Sự sống là sự kết hợp giữa hồn và xác. Khi hồn lìa xác, con người sẽ đi về cõi sau. Vì thân xác là tro bụi và sẽ trở về bụi tro. Tinh thần hay linh hồn không bị tiêu diệt vì hồn thiêng liêng. Thánh Phaolô nói tinh thần vẫn sống vì đức công chính. Chúng ta đặt niềm tin tưởng vào Chúa Kitô là nguồn ban sự sống. Chúa Kitô là hoa qủa đầu mùa của những kẻ yên giấc. Chúa Giêsu đã sống lại từ cõi chết và không còn chết nữa. Sự chết không còn làm chủ được Người nữa. Thánh Phaolô đặt trọn niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh: Và nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống, nhờ Thánh Thần ngự trong anh em (Rm 8, 12). Đây là niềm tin và niềm hy vọng của chúng ta đang trong cuộc lữ hành dương thế. Chúng ta đã đầu tư và đánh đổi cả cuộc đời để tin tưởng vào sự sống và sự sống lại ngày sau. Chúng ta bước đi trong niềm tin, chứ không bằng thị giác (walk by faith, not by sight). Vì nếu Chúa Kitô không sống lại, thì tất cả niềm tin của chúng ta trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Những đề tài của các Chúa Nhật Mùa Chay, chu kỳ năm A, đã từng bước dẫn chúng ta đi sâu vào niềm tin nội tâm. Lần lượt mỗi tuần một đề tài: Chúa vào hoang địa ăn chay, cầu nguyện và chịu những cơn cám dỗ; Chúa Biến Hình sáng láng; Chúa ban nước hằng sống cho người phụ nữ Samaria và dẫn vào con đường sự thật; Chúa chữa người mù từ bẩm sinh và Chúa cho người đã chết sống lại. Đây là hành trình đức tin, Giáo Hội đã từng bước dẫn dắt chúng ta suy tư sâu lắng vào mầu nhiệm ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã sắp sẵn. Trong câu chuyện đối thoại với chị em Martha và Maria: Chúa Giêsu lại nói: “Ta chẳng bảo con rằng: Nếu con tin, thì con sẽ xem thấy vinh quang Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 40). Tất cả niềm tin qui vào Chúa Giêsu Kitô. Chúa Giêsu đã đi trước mở cửa ngõ vào cõi trường sinh bất diệt. Chúng ta không thể đi con đường nào khác ngoài bước theo con đường Chúa đã đi. Bước theo Chúa, phải trải qua đau khổ để vào vinh quang. Mùa chay là mùa tịnh tâm, cầu nguyện và tập luyện các nhân đức: Đức tin, đức cậy và đức mến. Đức mến phủ trùm mọi khía cạnh của cuộc sống. Mỗi một lời nói, cử chỉ và hành động bác ái, chúng ta cần phản ánh tình yêu thương chia sẻ. Con đường dẫn vào Nước Trời được xây trên nền tảng của tình bác ái yêu thương. Tình yêu mạnh hơn sự chết. Chúa Kitô vì yêu thương nhân loại đã hiến mình chịu đau khổ, chịu chết trên thánh giá và đã sống lại vinh quang. Lạy Chúa, Chúa là sự sống và là sự sống lại. Xin cho chúng con biết sống xứng đáng và sinh ích trong cuộc sống đời tạm này, để sinh hoa kết qủa tốt đẹp đáng hưởng hạnh phúc mai sau. 20. Cho một niềm tin--“Như Thầy Đã Yêu”--Thiên PhúcThời chiến quốc, có người đem dâng vua nước Sở một vị thuốc bất tử. Người ấy bưng vịt huốc vào, viên quan canh cửa hỏi rằng: - Vị thuốc này có uống được không? Người ấy đáp: - Uống được. Tức thì viên quan giật lấy mà uống. Chuyện đến tai vua. Ông liền bắt viên quan đem giết. Viên quan kêu rằng. - Thần đã hỏi người đem dâng thuốc. Người ấy nói rằng: “uống được”, nên thần mới dám uống. Thế là thần vô tội mà lỗi ở người dâng thuốc. Vả chăng, người đem dâng thuốc nói là thuốc bất tử. Thế mà thần mới uống vào đã sắp phải chết, vậy là thuốc thử chứ sao gọi là thuốc bất tử được? Nhà vua giết thần, thực là bắt tội một người vô tội. Hơn nữa, còn chứng tỏ rằng thiên hạ dối được nhà vua mà nhà vua vẫn tin. Vua nghe nói có lý, bèn tha cho viên quan ấy, không giết ông nữa. *** Làm gì có thuốc bất tử trên trần gian này! Chỉ có những kẻ quá ham sống sợ chết nên mới mơ tưởng đến loại thần dược chỉ có trong huyền thoại. Chúng ta không bao giờ có thể thuyết phục cái chết dời xa cánh cửa đời ta. Thực ra, vẫn có sự sống bất tử, nhưng là trong cuộc sống đời sau. Tuy nhiên, vị thuốc bất tử ấy người ta lại phải chiếm hữu cho bằng được trong cuộc sống đời này. Tin mừng hôm nay giới thiệu cho chúng ta vị thuốc bất tử ấy: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,25-26). Vâng, chính “niềm tin vào Đức Kitô” là một bảo đảm tuyệt đối để được sống mãi muôn đời. Đâu phải chỉ vì tình bạn thân thiết với Ladarô mà Đức Giêsu cho ông được sống sau khi chôn bốn ngày trong huyệt đá, mà chính là niềm tin của Maria và Macta vào Đức Kitô là “sự sống và là sự sống lại” (c.25). Phép lạ cho Ladarô sống lại chỉ là chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lẫy lừng, một phép lạ trọng đại nhất trong đạo, chính là Đức Giêsu Kitô đã chết và đã sống lại vinh quang mà chúng ta sẽ cử hành trong Tuần Thánh sắp đến. Đức Kitô chết và sống lại là để dẫn đưa con người từ cõi chết trở về cõi sống, từ nơi tạm bợ về chốn vĩnh hằng. Đó là niềm tin của người tín hữu, cũng là đức tin của Kitô giáo. Niềm tin đó bảo đảm cho sự trường tồn của Giáo Hội. Thánh Phaolô nói: “Nếu đức Kitô đã không trỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của mình” (1Cr 15,17) Tin Đức Kitô là “sự sống lại và là sự sống”, chính là sống yêu thương tự hiến như Đấng đã sống và đã chết cho tình yêu. Tin Đứ Giêsu là “sự sống lại và là sự sống” chính là chết đi cho tội lỗi để được sống lại vinh quang với Đấng Phục Sinh. Tin Đức Giêsu là “sự sống lại và là sự sống”, chính là chết cho tình yêu trần thế, để sống cho niềm tin Nước Trời. *** Lạy Chúa, trong đoạn Tin mừng hôm nay có một câu ngắn nhất trong toàn Kinh Thánh. Đó là câu “Đức Giêsu liền khóc” (Ga 11,35). Ngắn nhất nhưng lại bày tỏ một tình yêu sâu đậm nhất Chúa dành cho Ladarô. Xin cho mối tình thân thiết của chúng con với Chúa ngày càng mật thiết hơn, để chúng con cũng được Chúa thương, cho cùng sống lại với Chúa trong vinh quang đời đời. Amen. 21. Thời gian là của Chúa--Lm. Giuse Tạ Duy TuyềnNếu được hỏi cái gì cần nhất? Có lẽ nhiều người trong chúng ta sẽ trả lời là tiền. Vì tiền là Tiên, là Phật. Thế nhưng, có một thứ mà tiền cũng không thể mua được, đó là thời gian. Thời gian khép lại cũng đồng nghĩa mọi sự sẽ qua đi chẳng còn ích lợi gì cho chúng ta. Dù rằng chúng ta có khối tài sản lớn. Dù rằng chúng ta có một địa vị cao. Thời gian chấm hết thì mọi sự cũng sẽ chia tay chúng ta. Hơn nữa, thời gian của con người thật mong manh tựa như bóng câu qua cửa sổ, tựa như cơn gió thoảng qua... Có một người rất keo kiệt, lúc nào cũng chắt bóp chẳng dám ăn tiêu gì. Tích cóp cả đời, anh ta để dành được cả một gia tài lớn. Không ngờ một ngày, Thần Chết đột nhiên xuất hiện đòi đưa anh ta đi. Lúc này anh ta mới nhận ra mình chưa kịp hưởng thụ chút gì từ số tiền kia. Anh ta bèn nài nỉ: - Tôi chia một phần ba tài sản của tôi cho Ngài, chỉ cần cho tôi sống thêm một năm thôi. - Không được. – Thần Chết lắc đầu. - Vậy tôi đưa Ngài một nửa. Ngài cho tôi nửa năm nữa, được không? – Anh ta tiếp tục van xin. - Không được. – Thần Chết vẫn không đồng ý. Anh ta vội nói: - Vậy… tôi xin giao hết của cải cho Ngài. Ngài cho tôi một ngày thôi, được không? - Không được. – Thần Chết vừa nói, vừa giơ cao chiếc lưỡi hái trên tay. Người đàn ông tuyệt vọng cầu xin Thần Chết lần cuối cùng: - Thế thì Ngài cho tôi một phút để viết chúc thư vậy. Lần này, Thần Chết gật đầu. Anh run rẩy viết một dòng: - Xin hãy ghi nhớ: “Bao nhiều tiền bạc cũng không mua nổi một ngày”. Hóa ra ở đời điều quan trọng không phải là tiền. Điều quan trọng là mình biết sử dụng thời gian có ý nghĩa hay không? Có tiền mà sống vô nghĩa cũng uống phí. Có tiền mà không biết tận hưởng hạnh phúc cuộc sống cũng bằng thừa. Thế nên, hãy biết trân trọng thời gian. Hãy làm việc tích đức cho cuộc đời. Đừng để uổng phí cuộc đời trong những đam mê của danh lợi thú. Thời gian sẽ trôi qua không chờ không đợi. Thời gian sẽ qua đi như hoa sớm nở chiều tàn. Hãy sống cho có ý nghĩa là sống có ích cho tha nhân, cho cuộc đời. Đừng chỉ sống cho mình kẻo uổng phí thời gian. Người ta cho rằng tuổi thọ trung bình của người Việt là 70 năm. Nhưng trong 70 năm ấy, có người sống trọn nhưng không để lại thứ gì cho đời. Có người sống 30 năm nhưng lại để lại biết bao điều tốt đẹp cho đời. Thiên Chúa là chủ thời gian. Chính Ngài làm chủ sự sống của chúng ta. Sống chết đều nằm trong sự quan phòng của Ngài. Thế nên, hãy sống trong ân nghĩa với Ngài. Hãy sống trong sự hiệp nhất với Đấng làm chủ cuộc đời chúng ta, để chính Ngài sẽ cho chúng ta được sống và sống đời đời. Lagiarô dầu được Chúa trả lại sự sống một lần nhưng rồi với quy luật thời gian, ông cũng chết như bao người khác. Điều quan trọng và quý giá của cuộc sống là biết sống trong ân nghĩa với Thiên Chúa, biết sống kết hợp trọn vẹn với Thiên Chúa cả ở đời này lẫn đời sau. Nhờ vậy mà chúng ta được sống hạnh phúc đời này và cả đời sau. Giả dụ như chúng ta cũng được như Lagiarô Chúa cho chết rồi sống lại. Chúng ta sẽ sống cuộc sống còn lại như thế nào? Liệu có còn muốn bon chen, tích góp, giành giật hay sống dành thời gian cho có ý nghĩa với gia đình, với cuộc đời. Nếu ai đã từng trải qua bệnh tật thập tử nhất sinh có lẽ sẽ cảm nghiệm điều này: tiền tài, danh vọng chẳng là gì một khi đã nhắm mắt xuôi tay. Một khi mình không có nắm giữ được chúng nữa thì những gì mình tích góp cũng uổng công. Đồng tiền không mua được thời gian, ước gì chúng ta biết sử dụng thời gian cho hợp lý. Xin đừng vì danh lợi thú mà sống xa rời Thiên Chúa, lỗi luật với Ngài để rồi chúng ta sẽ mãi lạc vào cõi hư vong. Ước gì chúng ta biết noi gương Chúa Giê-su sống trọn vẹn thời gian trong sự kết hợp với Chúa Cha và phục vụ tha nhân với hết khả năng của mình. Có như vậy chúng ta mới sống tròn ý nghĩa cuộc đời là tôn vinh Thiên Chúa và phục vụ tha nhân. Amen. 22. Niềm tin tín thác--Lm Giuse Tạ Duy TuyềnCuộc đời có đau khổ, có hạnh phúc. Đau khổ và hạnh phúc hoà quyện vào nhau làm thành một cuộc đời đầy thi vị và ý nghĩa. Tựa như chanh và đường có vị ngọt vị chua. Cuộc đời cũng có ngọt ngào của hạnh phúc và có cả chua cay của khổ đau. Thế nhưng, nhiều người lại sợ hoà những vị chua, vị cay vào kiếp người. Họ sợ đau khổ. Họ sợ bất hạnh. Họ sợ nghi nan. Đối với họ, Thiên Chúa là lá bùa hộ mệnh để đảm bảo cho họ một cuộc đời an vui hạnh phúc. Họ cho rằng, dấu chỉ sự hiện hữu của Thiên Chúa là đẩy lùi sự dữ ra khỏi cuộc đời của họ. Có Chúa thì không thể có bất hạnh, không thể có khổ đau. Đó là điều mà Matta và Maria đã từng nghĩ như thế! Các bà đã trách Thầy "nếu Thầy ở đây thì em con không chết". Thế nhưng, Lagiaro đã chết! Phải chăng hai bà cũng ngầm trách Chúa, lúc đó Thầy ở đâu? Lúc mà Lagiaro đang ốm nặng? Lúc mà tình thế có thể được cứu vãn? Nếu Thầy đến nhanh hơn một chút thì có lẽ đã chẳng có thảm cảnh hôm nay. Thực vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà Matta và Maria thì Lagiaro đã chết và đã chôn cất được 4 ngày rồi. Một thời gian đủ để thân xác có thể bắt đầu tan rã để hoà trộn với bùn đất. Dầu vậy, ở đây chúng ta thấy đức tin trổi vượt của Matta, một đức tin không lay chuyển trước thử thách để có thể thưa lên với Chúa rằng: "nhưng bây giờ con biết. Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho". Quả là một đức tin tinh tuyền, tuyệt đối, không lay chuyển trước sóng gió cuộc đời. Matta là một con người thật chân thành, bộc trực. Bà trách Chúa nhưng lòng bà vẫn tin vào quyền năng của Chúa. Trong đau khổ bà vẫn không tuyệt vọng. Thế nên, Chúa đã nói cùng bà: "Em con sẽ sống lại". Matta ngạc nhiên hơn là cảm động. Bà không hiểu nổi và chỉ ú ớ tuyên xưng: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết". Lúc này Chúa Giê su làm nổ tung một bí ẩn, chiếu sáng đức tin và đòi hỏi một lòng tin tín thác: "Thầy là sự sống và là sự sống lại. Ai tin Thầy thì dù có chết cũng sẽ sống lại, chị có tin được như thế không? Matta thưa: "Thưa Thầy con tin. Con tin Ngài là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian". Cuối cùng, Chúa đã nói với Matta và Maria và những người đang đứng đó: "nếu tin, thì sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa". Và rồi Ngài đã gọi Lagiaro trong mồ bước ra trước sự ngỡ ngàng, sửng sốt của gia đình Matta, của dân chúng làng Bêtania. Kính thưa quý Ông Bà Anh Chị Em, Trong cuộc sống đầy bon chen để kiếm miếng cơm manh áo, chúng ta thấy cuộc đời sao khổ quá! Nhất là trong thời kỳ gạo quế củi châu, lạm phát gia tăng, kiếm đồng tiền đổi lấy chén gạo bát canh đã khó lại càng khó khăn hơn. Rồi cuộc đời đâu mấy khi bình yên. Sóng gió tư bề. Đau khổ bệnh tật. Thiên tai lũ lụt, hạn hán hoành hành. Năm nay, Việt Nam còn hứng chịu cái lạnh kéo dài khiến cho hàng trăm con trâu bò bị chết cóng, hàng trăm ngàn hecta đất không thể trồng cấy đúng mùa. Dịch bệnh lan tràn. Người dân nghèo lại càng nghèo thêm. Cái lạnh của trời đất hoà với cái lạnh của tình người khiến cho cái đói, cái khổ cứ lận vào cả một kiếp người. Đặc biệt là trân động đất gây nên sóng thần tại Nhật Bản đã khiến hơn 10 ngàn người thiệt mạng, hàng trăm ngàn người không có nhà cửa và biết bao khu phố phồn thịnh nay chỉ còn là đống hoang tàn. Đứng trước một viễn cảnh đầy những khổ đau như thế, nhiều người đã thầm trách Chúa, Chúa ở đâu sao để cuộc đời luôn giăng đầy những sầu đau? Chúa có nhìn thấy những bất hạnh mà con đang gặp phải trong cuộc đời vốn dĩ lắm nổi trôi lại nhiều phiền muộn này? Bài phúc âm hôm nay, mời gọi chúng ta đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Thiên Chúa vẫn luôn quan tâm đến chúng ta. Người luôn đi bước trước để an ủi, nâng đỡ chúng ta. Người cũng đang mời gọi chúng ta đặt niềm tin vào Chúa như Matta để trong những biến cố đau thương nhất của cuộc đời chúng ta vẫn có thể thưa lên cùng Chúa. Con tin rằng: Chúa có thể làm những điều tốt đẹp nhất cho con. Đau khổ là một sự dữ. Bất hạnh của cuộc đời là đêm tối của đức tin. Tuy nhiên qua những biến cố này, niềm tin lại toả sáng trong cuộc đời chúng ta. Chính trong những bất hạnh đó, chúng ta mới thấy con người thật nhỏ bé, tầm thường, chúng ta mới thấy sự bất toàn của kiếp người để đặt niềm tín thác vào Thiên Chúa. Con người luôn bất lực trước sự dữ, nhưng nếu Thiên Chúa muốn, Ngài có thể giải thoát chúng ta ngay bây giờ khỏi mọi điều sự dữ. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết đặt niềm tin tưởng cậy trông vào Chúa ngay giữa những gian nan của dòng đời và ngay giữa những bất hạnh của cuộc đời chúng ta. Amen. 23. Tình thương mạnh hơn sự chết--Cố Lm. Hồng PhúcCâu chuyện Chúa Giêsu cho Lazarô sống lại là một tường thuật căn bản của Phúc Âm thánh Gioan. Chúa Giêsu được mô tả như Ngôi Lời nhập thể, đến trong thế gian để con người được đưa từ bóng tối ra ánh sáng, từ sự chết vào cõi sống, từ đất đến trời. Đức Giêsu Nagiarét thật là một con người huyền diệu và là một Thiên Chúa toàn năng. Gioan, người đồ đệ Chúa thương yêu, đã sống bên cạnh Chúa, đã nhìn thấy, đã sờ đụng, đã chứng kiến quyền năng của Ngôi Hai Thiên Chúa trong bản thể của con người. Đây là một bản tuyên xưng Đức Tin sống động mà Công đồng Chalcédoine năm 451 đã long trọng công bố: “Ngôi Lời, Con Một Thiên Chúa, sinh bởi Đức Maria về tính loài người, gồm hai bản tính không lẫn lộn, không thay đổi, không chia sẻ, không tách rời”. Đấng ấy Gioan đã nhìn thấy và minh chứng. Ngài là một con người đích thực, biết yêu biết cảm. Gioan viết rằng tại làng Bêtania, “Chúa Giêsu thương Martha và em là Maria và Lazarô”, nhưng hôm nay, Lazarô đã chết và chôn được 4 ngày rồi. Trên đường dẫn ra mộ để thăm người bạn cũ, Gioan nhìn thấy khuôn mặt Chúa nhiều lần biến sắc: Ngài bồn chồn, xao xuyến, Ngài khóc khi thấy hai chị em khóc nức nở: “Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết!”. Ngài là một con người đích thực, biết thương, biết cảm, biết chia sẻ tình bạn, biết liều mạng sống vì bạn hữu. Người Do thái nói: “Kìa, xem Ngài thương ông ấy biết là chừng nào”. Nhưng qua khuôn mặt con người đó, sáng chói quyền năng của một ngôi vị Thiên Chúa. Gioan mô tả những chặng đàng Chúa đi xuống với sự chết để rồi cùng với người chết đi lên với sự sống. Lazarô, người bạn thân của Chúa, ốm nặng, tắt thở, được chôn cất và đã nặng mùi, vì đã 4 ngày. Đó là tất cả thảm trạng của sự chết, hình ảnh sự chết của tâm hồn do tội lỗi. Nhưng Chúa là chủ sự sống, Ngài không để bạn hữu mình trầm luân mãi trong bóng tối sự chết. Gioan nhìn thấy hình ảnh đặc ân rửa tội đến một cuộc tái sinh, một cuộc vươn lên sự sống, do Đấng là “sự sống và là sự phục sinh” mang lại. Đứng trước hầm mộ, Ngài kêu lớn tiếng như để tiếng Ngài rạng đến cõi âm u của sự chết. Và Lazarô đã ra khỏi mồ, được tháo gỡ khỏi “xiềng xích sự chết” (Tv 116, 8), được sống lại đầy sinh lực. Gioan nhìn thấy ở đây hình ảnh một người tân tòng vừa bước ra khỏi giếng rửa tội. Vì thế, Giáo hội đọc lên trong ngày tái sinh trong giếng nước rửa tội cũng như trong nghi lễ tiễn đưa một tín hữu đến nơi an nghĩ cuối cùng Lời của Chúa phán trước phần mộ của Lazarô: “Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dầu có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ”. Ngài là ai mà tình thương mạnh hơn sự chết? Martha đã nói lên niềm tin của Bà cũng như niềm xác tín của chúng ta. “Thưa Thầy, vâng, con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. 24. Thiên Chúa, Nguồn Sống và Sáng--Lm Bùi Quang Tuấn"Điều đã thành sự nơi Ngài là sự Sống, và sự Sống là sự Sáng cho nhân loại" (Gn 1:3). Những lời dẫn nhập trên đây trong Tin Mừng theo thánh Gioan được minh họa đầy đủ hơn qua trình thuật "Chúa chữa người mù" và "Phục sinh Lazarô". Rõ ràng, vị thánh sử muốn khẳng định: Đức Giêsu chính là Sự Sống và Sự Sáng cho muôn dân. Trong bài Phúc âm tuần trước, khi được các môn đệ hỏi "Tội ai đã gây ra tình cảnh bất hạnh cho người mù mắt thuở mới sinh," Đức Giêsu trả lời: "Không phải tội ai cả, nhưng để nơi con người ấy công việc Thiên Chúa được rạng vinh." Trong bài Phúc âm tuần này, khi có người báo cáo về tình hình nguy tử của Lazarô, Chúa Giêsu lại xác quyết: "Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa, và do đó Con Thiên Chúa sẽ được tôn vinh." Dưới đôi mắt loài người, bệnh hoạn, tật nguyền, đau thương, chết chóc là những mầm móng gieo rắc thống khổ, bất an và bất hạnh. Nhưng đối với Đức Giêsu, tất cả có thể trở thành phương thế ca ngợi quyền năng của tình yêu Thiên Chúa. Như thế, một cái nhìn mới đã được trao ban cho nhân loại: thay vì kêu ca, nguyền rủa và khước từ khổ đau, con người có thể chấp nhận và sử dụng nó như phương tiện tiến tới vinh quang ngày mai. Chúa Giêsu không đề cao đau khổ như cứu cánh của con người, nhưng Ngài lại dùng đau khổ để bày tỏ tình yêu là cội nguồn của ơn cứu độ. Bao năm trời rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu không ngừng ra tay giải thoát người ta khỏi những áp chế của bệnh tật, u sầu và chết chóc phần xác, nhưng chính Ngài lại đón nhận nỗi tang thương khủng khiếp nhất của kiếp người là cái chết ô nhục để mang lại cho thế giới sự sống thần linh phong phú. Chúa Giêsu vừa "yếu đuối" để chia sẻ và cảm thông tận cùng nỗi khổ đau của con người, nhưng lại vừa "mạnh mẽ" để nâng đỡ và cứu độ cả thể xác lẫn linh hồn nhân thế. Thánh Gioan đã làm rõ nét chân dung của Chúa Giêsu với hai bản tính Thiên Chúa và con người, "mạnh mẽ" và "yếu đuối", trong phép lạ "Phục sinh Lazarô." Kinh thánh kể: Đức Giêsu thương mến ba chị em Matha, Maria và Lazarô cách đặc biệt nên thường ghé nhà họ mỗi lần có dịp qua làng Bêtania. Thế nên khi Lazarô ốm nặng, Matha vội cho người cấp báo với Đức Giêsu, hy vọng rằng Ngài sẽ đến chữa ngay cho em mình. Tuy nhiên, Đức Giêsu biết rõ những gì sẽ xảy ra, nên Ngài tiếp tục lưu lại nơi đang ở là quận Pêrê thuộc mạn đông của giòng sông Giođan thêm hai ngày nữa, sau đó mới lên đường đi Bêtania. Như thế, người đưa tin đi hết một ngày đường, thêm hai ngày Chúa ở Pêrê, và một ngày đường Ngài đi về Bêtania, tổng cộng là 4 ngày, bằng số ngày Lazarô qua đời. Tại Palestine, vì thời tiết nóng nực làm cho xác chết mau mục rữa và hôi thối, nên người ta thường đem chôn ngay trong ngày người chết vừa qua đời, sau đó mới tiến hành một tuần than khóc. Thế nên, Kinh thánh ghi nhận: "Có nhiều người bạn bè thân thích vẫn còn lưu lại với chị em Matha khi Chúa Giêsu đến." Rồi khi thấy tang gia cùng bao bạn bè thân thích than khóc về sự ra đi của Lazarô, Chúa Giêsu đã thổn thức xúc động (Gn 11,33). Thế rồi, đang lúc đi ra mộ thì Ngài khóc (Gn 11,35). Tại sao biết trước những gì sẽ xảy đến cho Lazarô và những gì mình sẽ làm để tôn vinh Thiên Chúa mà Đức Giêsu lại thổn thức? Phải chăng thánh sử Gioan muốn xác quyết Chúa Giêsu là một con người đích thực: biết thương, biết cam, biết chia sẻ thân phận và niềm đớn đau mất mát của con người? Phải chăng Ngài đang đi sâu vào cõi âm u của sự chết, để rồi từ đó đưa con người tiến ra với sự sống. Ngoài việc bày tỏ nhân tính, Chúa Giêsu còn mạc khải thiên tính: "Ta là sự sống lại và là sự sống." Xưa nay, không người nào dám tuyên bố như thế, bởi vì có ai lại không bị thần chết khuất phục. Chỉ có Thiên Chúa mới là chủ tể của sự sống và sự chết. Không ai có thể tự mình bước vào cõi chết và sau đó lấy lại sự sống. Chỉ có Đức Giêsu mới làm được việc ấy. Ngài hô lớn tiếng: "Lazarô! Hãy ra đây!". Người chết đi ra, chân tay và mặt còn quấn các mảnh vải và khăn liệm. Đáng ngạc nhiên là việc người chết lại có thể nghe được tiếng hô của Đức Giêsu để sống lại! Như thế lời tiên báo của Ngài trước dân Do thái đã bắt đầu thành sự: "Quả thật, quả thật, Ta bảo các người: giờ đã đến - và là ngay bây giờ - các kẻ chết sẽ nghe tiếng Con Thiên Chúa, và ai nghe thì sẽ sống" (Gn 5,25) Từ trong thâm cung của cõi chết, Lazarô đã nghe tiếng Con Thiên Chúa để rồi bước ra cõi sống. Điều đó hàm ngậm một chân lý: khi con người lắng nghe tiếng Chúa và thi hành, sự sống sẽ phát sinh. Đây là sự sống thần linh, không mục nát, không thối rữa mà Chúa Giêsu mang đến cho nhân loại. Như thế, dù thân xác có bị tan biến theo thời gian, sự sống Thiên Chúa tặng ban sẽ giúp con người tồn tại muôn đời. Vậy thì hôm nay Chúa muốn nói gì với tôi, và tôi phải làm gì để có được sự sống thần linh đó? Chúa nói "Hãy cởi khăn liệm cho anh ấy." Như thế, Chúa muốn tôi ra tay tháo gỡ những mãnh khăn đang bó buộc tha nhân, đem lại cho họ nhân phẩm và sự sống đích thực của con người. Ngài muốn tôi thắp lên một ngọn lửa yêu thương, dù rất bé nhỏ, để góp phần soi sáng cuộc đời. Chúa bảo dân chúng cởi khăn cho Lazarô, và Ngài cũng mời gọi tôi hãy cởi bỏ những đắng cay, buồn phiền, thất vọng, u mê cho kẻ khác. Làm như thế là tôi đang sống trọn vẹn ý nghĩa của mùa Chay thánh, đồng thời đón nhận dồi dào ánh sáng Phục sinh của Đức Giêsu, Đấng Cứu độ con người. 25. Chứng nhân của tin mừng sống lại--Lm. Giuse Trương Đình Hiền1. Tin vào sự sống: Trước huyền nhiệm sự chết, con người thường bị ném vào một hụt hẫng, vỡ vụn: Để rồi không biết bao nhiêu câu hỏi đã đặt ra: Tại sao như thế? Con người là "Nhân ư linh vạn vật" kia mà? Và làm sao Thiên Chúa tốt lành, quyền năng lại để xảy ra như thế? Như những câu thơ oán thán "Trời già" của một người cha mất đứa con yêu: "Ái ăn đâu, Ái ở đâu? Để thương để nhớ để u sầu. Trời già độc địa làm chi bấy? Nỡ bắt con tôi bảy tuổi đầu! Phải chăng đó cũng chính là dụng ý của câu nói mà hai chị em Matta và Maria ở Bê-ta-ni-a đã trách móc Chúa Giêsu khi đối diện với cái chết của người em trai yêu dấu: "Phải chi có Thầy ở đây thì em con không chết!". Phần chúng ta, vấn nạn "nhân sinh quan" nầy gần như đã được giải đáp ngay từ những trang đầu của Kinh Thánh. A-đam-E-Va, sau khi khước từ Lời Thiên Chúa "Ngày nào các ngươi ăn trái cây nầy, các ngươi sẽ phải chết" (St 2,17), nghe lời ma quỷ xúi dục, đã đưa tay "hái trái cấm"...và thế là "sự chết đã lan tràn tới mọi người" (Rm 5,12): Ca-in giết A-ben, lụt đại hồng thủy, bảo lửa hủy diệt Sodoma và Gomora...Và cho tới mãi hôm nay, hình như thế giới cứ lần mò tiến đi giữa một "nền văn minh sự chết": khủng bố, chiến tranh, hận thù sắc tộc, tôn giáo, Si-đa, ma túy, phá thai, dịch bệnh... Thế nhưng, đó lại không phải là ý càng không là chương trình của Thiên Chúa. Thiên Chúa không bao giờ là "Chúa của kẻ chết" mà là "Chúa của người sống". Cho nên, từ hơn năm trăm năm trước khi Chúa Cứu Thế giáng sinh, chính trong cái "vũng lầy nhầy nhụa" đầy những đống xương khô của bóng tối và sự chết, của đọa đầy và thất vọng, của đắng cay ưu phiền trong kiếp nô lệ của thời lưu đầy Babylon (587 B.C)...dân Ít-ra-en đã nghe vang lên lời của Thiên Chúa như "tiếng kèn hy vọng" qua miệng của ngôn sứ Ê-giê-ki-en: "Nầy hỡi dân ta, Ta sẽ mở cửa huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi huyệt...Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh..." (BĐ 1). Nếu thân phận lưu đày của ít-ra-en là ảnh hình của một nhân loại đọa đầy tội lỗi, thì "tin vui hy vọng" của Ê-giê-ki-en kia cũng chính là tín thư riêng tặng cho mỗi người chúng ta mà nội dung xuyên suốt chính là: niềm hy vọng chứa chan vào lòng trung tín của Thiên Chúa vượt trên khổ đau và chết chóc và tình yêu cứu độ của Thiên Chúa mãi mãi là sức mạnh hồi sinh, là quyền uy giải thoát. Chân lý nầy nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ của đời thường cuộc sống hôm nay thì sẽ được hiểu rằng: chúng ta không được quyền thất vọng cho dù phải đối diện với bao thảm cảnh cuộc đời, cả cái chết. Bởi vì Thiên Chúa đang có mặt trên mọi nẽo đường và biến cố để thổi vào Thần Khí tác sinh, để gieo vào hạt mầm của sự sống và hồng ân cứu độ. Niềm tin đó không là chuyện hoang tưởng của những đầu óc mê lầm,lú lẩn, nhưng là một chân lý rõ như ban ngày đúng như nhận xét thâm thúy của Gilbert K. Chesterton: "Nếu những hạt giống trong lòng đất đen mà còn có thể biến thành những cánh hoa hồng xinh đẹp như thế, thì trái tim con người còn thể biến thành thế nào nữa trong cuộc hành trình hướng đến các vì sao". Và có một điều kỳ lạ là Thiên Chúa không bao giờ chỉ nói suông mà "Lời luôn đi kèm hành động". Biến cố "cải tử hoàn sinh" cho người bạn La-gia-rô chết thúi 4 ngày trong huyệt mộ là một minh họa rõ nét cho chân lý nầy. Thật vậy, chính ngay "quê hương của tử thần", ngay cánh cửa dẫn vào huyệt mộ, một tiếng nói quyền năng đã âm vang thấu tận âm phủ, mở toang cánh cửa âm ty: "Hỡi La-da-rô hãy bước ra", "Ta là sự sống lại và là sự sống" (TM). Như vậy bài học đầu tiên của Lời Chúa hôm nay mà chúng ta phải thuộc, tin mừng tiên khởi mà hôm nay chúng ta phải sống chính là:Tin vào sự sống. Tin vào một Thiên Chúa tình yêu ban sự sống, tin vào một Đấng Kitô Phục sinh dẫn ta vào cuộc sống vĩnh hằng, tin vào Chúa Thánh Linh đang thổi vào hồn ta nguồn sống mới, thì liệu có mang lại chuyển biến nào cho chính ta và cho thế giới hay chăng? Thưa có đấy. Bởi vì chỉ với niềm tin như thế ta mới thấy thế giới đẹp vô cùng, ta mới thấy cuộc sống mới đáng sống làm sao, mới thấy mỗi một con người, mỗi một sinh linh là một công trình kỳ diệu, mới thấy mỗi một cuộc đời, cho dù què cụt điếc câm, cho dù thấp cổ bé miệng, cho dù dốt nát bần hàn...vẫn là một "kỳ công vĩ đại của Thượng Đế" luôn cần được kính trọng, luôn phải được sẻ chia, yêu thương và phục vụ. Bởi vì tất cả đều là sự sống tốt lành phát xuất từ nguồn sống vĩnh cửu và sẽ được thăng hoa, qui hướng về cội nguồn vĩnh cửu rạng ngời vinh quang đó. Vâng, chỉ với niềm tin đó thì chúng ta mới trụ vững giữa trăm chiều thử thách, mới đủ can đảm mĩm cười với số phận cho dù số phận có khắc nghiệt oái ăm, mới đủ quảng đại và khoan dung để yêu thương và tha thứ, cho dù bị bách hại đọa đầy. Và nhất là, chỉ với niềm tin đó, chúng ta mới bình thản sống cuộc sống hôm nay như một cuộc lên đường, một cuộc vượt qua, một cuộc tái sinh để bước vào quê hương vĩnh cửu. Niềm tin đó sẽ củng cố niềm hy vọng vĩnh hằng trong ta và giúp ta mạnh mẽ góp phần xây dựng nền "văn minh sự sống", "văn minh tình yêu", cho ta con tim rộng mở để đón nhận và yêu thương con người, cho ta nghị lực và hy vọng để chiến thắng và đẩy lùi sự dữ trong ta và quanh ta. Cách riêng đối với những anh chị em dự tòng sắp sửa lãnh nhận các bí tích gia nhập kitô giáo, niềm tin vào sự sống lại sẽ là một cảm nghiệm mới mẻ tinh khôi của những con người vừa kết thúc một chặng đường "vượt qua" đầy nhiêu khê và thử thách để hân hoan tiến vào "miền đất của tái sinh", hội nhập vào một cuộc sống mới mẻ của một đoàn dân được cứu chuộc. Tin vào sự sống, còn có nghĩa là tin vào một Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết: 2. Thiên Chúa đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết: Quả thật, khi vào đời, Con Thiên Chúa nào tránh né cái kiếp phận long đong của con người. Hãy xem: những giọt nước mắt đã lăn dài trên má của Chúa Giêsu khi chứng kiến cái chết của người bạn thân La-da-rô ở Bê-ta-ni-a; và chắc chắn sẽ không thiếu những "nụ cười" chia sẻ niềm vui với đôi tân hôn tại tiệc cưới Cana khi giúp họ có thêm mấy trăm lít rượu ngon để niềm vui trọn vẹn và được mãi nối dài. Nếu không có "trái tim trắc ẩn" của Ngài dừng lại trên quan tài của người thanh niêm xấu số bạt phần thì làm sao có nổi vui đong đầy trong cõi lòng của người mẹ mất con, góa phụ Naim? Nếu không có đôi tay sẻ chia và phục vụ giơ lên để chúc lành thì làm sao mấy ngàn người đói meo giữa hoang mạc có được bánh cá thơm ngon đã đời chắc ruột? Phải chăng, vì chính Ngài đã không chê những giọt nước mắt nóng hổi tình yêu sám hối của M.Mađalêna để lại trên chân mà đã khiến cho Matthêô sẵn sàng bỏ lại tất cả để theo Ngài lang thang rao giảng tình yêu? Phải chăng vì Ngài đã không kết án người phụ nữ ngoại tình mà Gia-Kê trưởng ty thu thuế giàu sụ sẵn sàng leo lên cành sung để được ngắm nhìn Ngài cho sướng mắt để sau đó sẵn sàng trở nên kẻ nghèo để sẻ chia và sống công chính. Phải chăng vì Ngài đã mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh mà đôi mắt tâm hồn của tên trộm bị đóng đinh bên hữu đã chợt mở ra để nhìn thấy trong cái thân xác bê bết máu kia là chìa khóa của quyền uy đang mở cửa vào Vương quốc vĩnh hằng? Sống đức tin hôm nay đó chính là ý thức mãnh liệt rằng: Đức Kitô phục sinh đang hiện diện trong mọi ngỏ ngách và biến cố cuộc sống, nhất là, Ngài có mặt ngay trong những phút giây và cảnh ngộ bi đát nhất như cảnh ngộ của gia đình Bêtania trong biến cố La-gia-rô qua đời. Thê thảm nhất, khổ sầu nhất, thất vọng nhất, là khi con người chối từ và phản bội Thiên Chúa để không bao giờ thấy được ánh sao hy vọng ở cuối trời, không nhận ra ánh mắt yêu thương và tha thứ đang dõi nhìn theo...mà chỉ một mình loay hoay bước đi trong cõi nhân sinh buồn thảm. Trong hoàn cảnh đó, trong thái độ đó, quả thật cuộc sống đã trở thành cõi chết, hương vị ngọt ngào của cuộc sống đã trở nên ngải đắng, ánh sáng ấm nồng mùa xuân trở thành đêm đông băng giá...Và như thế, một liều thuốc độc, một phát súng, một dây thòng lọng đã trở nên "phương tiện gần gũi dẫn lối đưa đường vào cõi chết tuyệt vọng"! Chúng ta đừng quên câu chuyện "Ngày Thứ Năm Tuần Thánh": khi Giu-đa phản bội Thầy, bỏ bàn tiệc ra đi, thì "bóng tối dâng lên"...và "bóng tối quái ác" đó đã phủ ngập trái tim Giu-đa cho đến khi y đưa đầu vào chiêc giây thòng lọng để chọn cái chết buồn tênh tăm tối. Trong khi đó, chiều Thứ Sáu hôm sau trên đồi Can-vê nắng úa, một kẻ trộm bị đóng đinh đang hấp hối, đã nhìn ra trong cái chết đớn đau oan nghiệt của con người tử tội Giêsu Na-da-rét một ánh sáng chứa chan niềm hy vọng: "Khi Thầy vào Nước của Thầy xin nhớ đến tôi". Và lập tức anh ta được đáp ứng: "Hôm nay anh sẽ ở trên thiên đàng với tôi". Như thế đó, Thiên Chúa qua Đức Giêsu Kitô đã nhập thể trong chính nổi đau và cái chết để dẫn đưa những ai tin vào Ngài tiến vào cuộc sống đích thực, như hôm nay Ngài xác quyết: "Ai sống mà tin vào Ta sẽ không chết bao giờ". Phải chăng đây cũng chính là kim chỉ nam cho đời thường cuộc sống và là sự chuẩn bị cuối cùng của Mùa Chay Thánh, chuẩn bị bằng sự can đảm "chết đi cho cái tôi đáng ghét" của mình, can đảm quay lưng chối từ cái quá khứ của cuộc đời nô lệ tội lỗi, can đảm thoát ra khỏi vũng lầy của yếu đuối, đam mê và dục vọng...để đĩnh đạt cùng với Đức Kitô bước vào niềm hy vọng phục sinh, cuộc sống mới trong hoan vui ân sủng. Tin vào sự sống, tin vào Đấng đã nhập thể trong nổi đau và cái chết để phục hồi tất cả trong vinh quang phục sinh sẽ không là một công thức suông được lặp đi lặp lại như "điệp khúc của mùa Chay", mà phải hiện thực ngay trong thánh lễ nầy, khi chút nữa đây, Thịt Máu Ngài sẽ trở nên lương thực trường sinh để biến cuộc đời ta, thân xác ta ngập tràn "Thần Khí. Điều quan trọng giờ nầy là ta hãy mạnh dạn trả lời câu hỏi của Đức Kitô: "Con có tin như thế không?" không phải bằng cách lặp lại thuộc lòng lời của cô Matta: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian", nhưng là bằng tất cả con tim và cuộc sống: con tim sẵn sàng yêu đến cùng cho dù phải thí mạng vì bạn hữu và cuộc sống sống hết mình cho vinh quang Thiên Chúa và cứu rỗi anh em cho dù phải kinh qua nẻo đường hẹp thập giá. Để yêu và để sống như thế, dĩ nhiên, sẽ là chuyện bất khả khi với thân phận con người, nhưng lại là chuyện có thể khi chúng ta biết sẵn sàng để cho "Thần Khí chi phối". Đó chính là kinh nghiệm của Thánh Phaolô, một con người đã được Thần Khí đổi mới toàn diện từ một tay "sát thủ" tận lực tiêu diệt kitô giáo đã trở nên chứng nhân của Tin Mừng sống lại. Nguyện xin Thần khí của Đức Kitô hôm nay cũng biến đổi tất cả chúng ta nên những con người mới, nên những chứng nhân của Tin Mừng Sống lại. Amen. 26. Suy niệm của Lm. Gioakim Bùi Văn NinhThời gian này chúng ta đi sâu vào Mùa Chay, và cũng trong thời gian này nhiều giáo xứ đã tổ chức Bí Tích Hòa Giải để nhiều người sám hối trở lại cùng Chúa, nhiều anh chị em dự tòng đang chuẩn bị tâm hồn đón nhận bí tích Thánh Tẩy. Tôi có tin nhận rằng Đức Giêsu Kitô đã chết và sống lại vì tôi không? Các bài đọc hôm nay cho thấy sự xuyên suốt với chủ đề: Sự Sống Lại. Bài đọc Cựu ước: Thiên Chúa cho dân Ngài sống lại. Bài Tin Mừng: Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại. Bài đọc Tân ước: Thánh Thần ban sự sống cho mọi xác phàm. Qua phép lạ Chúa Giêsu đã làm Chúa muốn ban cho con người từ sự sống lại đến sự sống đời đời. Câu then chốt trong bài Tin mừng hôm nay là: “Phục sinh và sự sống chính là Ta! Ai tin vào Ta thì dầu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta sẽ không phải chết bao giờ” (c 25). Và để giúp người ta tin như thế, Chúa Giêsu đã cho Ladarô sống lại. Bước vào đời sống rao giảng công khai, Chúa Giêsu đã không ngừng làm cho mọi người tin Người có sự sống đời đời đem đến cho người ta. Hôm nay sắp bước vào cuộc khổ nạn, Chúa càng khẳng định mạnh mẽ hơn để củng cố niềm tin của mọi người và nói lên ý nghĩa việc Người chấp nhận sự chết. Sự sống thể xác: Hầu hết ta lo lắng cho phần xác nhiều thời giờ hơn: ăn uống, tiền bạc, thuốc men, hưởng thụ… và cũng rất nhiều tội ta phạm vì quá lo cho sự sống thể xác. Tin mừng Thánh Gioan kể lại hôm nay, bà Matta, bà Maria nhiều người Do thái thân cận cũng đã lo lắng, buồn phiền, thương tiếc trước cái chết thể xác của người thân là Ladarô cả Chúa Giêsu cũng thổn thức trong lòng ít nhất là 2 lần trước cái chết thể xác của Ladarô. Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại, ông sống thêm một thời gian nữa rồi cũng phải chết như những người khác. Ai cũng biết rằng sự sống thể xác con người gặp rất nhiều giới hạn và giới hạn cuối cùng là cái chết và chính Chúa Giêsu cũng chấp nhận cái giới hạn đó. Sự sống thần linh: Qua tiên tri Êdêkien Chúa phán: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được hồi sinh” (Ed 37, 14a). Thánh Phaolô gởi thư cho tín hữu Rôma: Thánh Thần làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết sống lại trong anh em, thì cũng làm cho xác phàm hay chết của anh em được sự sống mới”. Sự sống thần linh quan trọng hơn sự sống thể xác bởi sự sống này thuộc về Thiên Chúa. Gợi ý áp dụng: Ladarô được Chúa Giêsu cho sống lại để làm vinh danh Chúa, làm cho những người Do Thái, các Tông Đồ và cả tôi nữa tin rằng Chúa Giêsu đã được Thiên Chúa sai đến với nhân loại. Ladarô sống lại giúp cho tôi xác tín vào niềm tin phục sinh của ngày mỗi người sẽ sống lại do quyền năng Thiên Chúa. Kinh Tin Kính chúng ta tuyên xưng: “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại”, mà tôi không sống đúng với lời tuyên xưng niềm tin ấy và chưa dám tin vào Lời Chúa nói: “Ai dám liều bỏ mạng sống thì sẽ được sống đời đời”. Mùa Chay giúp ta chuẩn bị chia sẻ sự sống đời đời với Đức Giêsu. Cuộc sống thần linh của ta có thể đã chết hay chưa sống dồi dào. Ta hãy kết hợp với Chúa Giêsu mà xin ơn Phục Sinh và tin chắc rằng ta sẽ được miễn là ta thực sự muốn mình Phục Sinh với Chúa. Sau câu chuyện này Thượng Hội Đồng Do Thái đã quyết định giết Chúa Giêsu, như vậy Chúa đã chết để cho tôi được sống. “Ai tin Ta sẽ không chết bao giờ” sau câu nói đó Chúa đã hỏi Matta: “con có tin như thế không”. Đó cũng chính là câu hỏi Chúa hỏi ta mỗi ngày và mỗi ngày ta sống như thế nào là câu trả lời đối với niềm tin vào Chúa Phục Sinh là sự sống đời đời. Trong thánh lễ chúng ta luôn tuyên xưng: “Chúng con loan truyền Chúa chịu chết, và tuyên xưng Chúa sống lại cho tới khi Chúa đến”, đó là lời nhắc nhở việc Phục Sinh của Chúa Giêsu Kitô. 27. Tin vào cái gì, hay là tin vào ai?--‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’--Achille DegeestSau cuộc gặp gỡ với Giakêu, Chúa Giêsu rời Giêricô đi Giêrusalem. Các môn đệ tìm cách can ngăn Người vì biết rằng ở đó Người sẽ gặp sự kình địch của người Do Thái. Tin tức về bệnh tình của Lagiarô gây nên một cuộc bàn cãi sôi nổi. Cuối cùng Chúa Giêsu tuyên bố: “Lagiarô chết rồi Ta mừng cho chúng con vì Ta không có mặt ở đó, để chúng con được tin”. Niềm vui của Chúa trong một hoàn cảnh như thế có thể làm ta ngạc nhiên. Người vui vì Người sắp tỏ uy quyền của mình trên thế lực mù quáng của sự chết, và đàng khác vì sắp tăng cường lòng tin của các môn đệ đối với Người. 1) Cái chết của Lagiarô là một sự kiện tự nhiên. Con người sinh ra rồi chết, đó là chuyện tự nhiên chắc chắn, điều hòa khác nào thời tiết vần xoay. Nhưng trong cái tất định ấy, trong cái tất yếu kia, một người can thiệp vào và chế ngự được chúng. Con người ấy đầy từ bi và quyền năng, Người là Thiên Chúa. Sự can thiệp của Chúa Giêsu chứng tỏ Thiên Chúa không xa xôi, không hờ hững với tạo vật. Chúa đã nhập thể. Người muốn có con tim biết xúc động, xao xuyến. Người bị đánh động bởi số phận con người, bởi tình nghĩa, bởi nỗi buồn phiền của bạn hữu. Bây giờ Người biểu dương quyền năng và cho Lagiarô sống lại. Điều này cho thấy rằng tuy vẫn trung tín với mình trong sự tôn trọng định luật thiên nhiên, nhưng Thiên Chúa có thể lấy quyền năng mình thay đổi chúng để phụng sự những kẻ Người yêu mến. 2) Nên để ý tới câu trả lời của Martha. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều ấy không?” Nghĩa là, con có tin rằng ai tin vào Ta sẽ được sống và hơn nữa, sẽ không phải chết bao giờ chăng? Chúa hỏi Martha về một chuyện gì, về sự xác tín được sống. Nhưng câu trả lời của Martha nói về chính con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: ‘Dạ, con tin rằng con sẽ không chết’ nhưng: “Con tin Thầy là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa”. Hẳn là nhờ lời tuyên xưng đức tin này (các môn đệ nghe rõ ràng) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các môn đệ khi đi về Bêtania, rằng: Người vui mừng. Người đã muốn xảy ra việc Lagiarô sống lại để những người chứng kiến nó, tin Người được Chúa Cha sai đến. Điều này cho ta thấy: Đức tin không phải là một sự tin tưởng vào sự vật, dù là vào một thế giới đã được phục hồi trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là tin vào Đức Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Tin vào Chúa Giêsu vì Chúa Giêsu, đó là điều căn bản, mọi sự khác sẽ đến sau, và chỉ là thứ yếu. 28. Quyền năng và Yêu thương--Lm. Giuse Nguyễn Hữu AnTin Mừng Ga 11: 3-7.17.20-27.33-35: Tin Mừng Chúa nhật V, Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời... Chúa Giêsu là Ngôi Lời nhập thể làm người. Ngài đồng hành cùng mọi người trong đời sống trần thế. Ngài đã từng đến chia sẻ niềm vui trong đám cưới tại Cana (x. Ga 2,1). Ngài đã buồn sầu thương khóc Ladarô cùng với hai chị em cô Matta (x. Ga 11,32-38)… Chúa Giêsu là Thiên Chúa thật và là người thật. Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay kể chuyện rõ ràng, Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người. Chúa Nhật I, Chúa Giêsu chịu cám dỗ trong thân phận con người. Chúa nhật II, Chúa Giêsu Hiển Dung trong thần tính vinh quang trên núi Tabor. Chúa nhật III, Chúa Giêsu là Nước Hằng Sống đem lại sự sống vĩnh cửu cho những ai tin vào Ngài. Chúa nhật IV, Chúa Giêsu là sự sáng thế gian, ai đi theo Ngài sẽ bước đi trong ánh sáng. Chúa nhật V, Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ngài thì được sống đời đời. Nhiều lần Chúa Giêsu nói về sự sống đời đời. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài khẳng định: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Giêsu đến thế gian để cho con người được sống và sống dồi dào. “Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời. Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”. Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Con người nhân ái đến thăm gia đình có người qua đời, trái tim rung động thổn thức. Chúa Giêsu khóc nức nở trước ngôi mộ của Ladarô khiến dư luận bàn tán: “Coi kìa. Ông ấy thương Ladarô biết dường nào!”. Thánh Gioan cũng thấy như vậy: “Đức Giêsu quý mến cô Mácta cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô”. Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi anh quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!… Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Anh nằm trong mồ bốn ngày qua, thối rữa ra rồi.Thế mà Chúa bảo hãy đi ra. Anh đi ra thật. Giải băng còn quấn cứng ngắc…Sự hoảng hốt bao trùm. Niềm vui bùng nổ. Hàng ngàn người lại nườm nượp tuôn đến. Đến để xem người chết sống lại. Ladarô sống lại là hiện thân của một biến cố lịch sử ngàn năm một thuở. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa. Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa thần chết. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11). Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống.Tin vào Ngài là thông hiệp vào sự sống lại sau khi chết, khiến cái chết không còn nghĩa lý gì nữa. Cái chết của Ladarô chỉ là một giấc ngũ (Ga 11,11), người tin Chúa sẽ coi nhẹ cái chết chỉ như một giấc ngũ, một chặng đường dẫn tới sự kết hợp vĩnh viễn với Chúa. Đức tin, nền tảng tư duy dẫn vào cuộc đổi mới đời mình và đổi mới cả môi trường trần thế đang là đất sống của con người tại thế. Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21). Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống. Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15). Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống “siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa. Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen. 29. Bên một Lazarô--Lm Giuse Nguyễn Hữu AnTrong dịp hành hương Đất Thánh, tôi có đến thăm ngôi mộ Ladarô. Từ Vườn Cây Dầu, nếu đi băng đồi theo đường thẳng chỉ chừng 4 km, nhưng hiện nay nằm trong phần đất thuộc Palestine với bức tường bêtông ngăn lối cũ, nên phải đi vòng bằng xe bus khoảng 20 km mất chừng 30 phút. Bêtania tên hiện nay là El - Eizarya. Thăm căn nhà Bêtania. Viếng nhà thờ dâng kính cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Matta trước khi Chúa làm phép lạ cho Ladarô sống lại. Nhà thờ bằng đá không lớn lắm. Phía ngoài nhà thờ, ngay bên đường lộ, một hầm sâu với bậc thang đi xuống, là mộ Ladarô. Mộ đục sâu vào đá, mấy chục bước tam cấp đi xuống, ánh sáng mờ ảo hắt lên những phiến đá lạnh lẽo nhập nhoà lung linh nơi Ladarô đã an nghĩ bốn ngày. Đứng trước mộ Ladarô, tôi nhớ đến đoạn Tin Mừng Ga 11,1-45. Ladarô đau nặng, Matta và Maria sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng”. Chúa bảo: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa”. Cho dù Ladarô đã chết, nhưng Chúa Giêsu vẫn nói với các môn đệ: “Thầy mừng cho anh em, vì Thầy đã không có mặt ở đó để anh em tin”. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Matta đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối: “Lạy Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Ladarô đã chết nhưng Matta tin chắc chắn Chúa có thể làm cho em trai mình được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu mạc khải: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Với lời xác quyết vừa trang trọng vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi Matta phải xác tín: “Con có tin điều đó không?”. Matta tuyên xưng: “Thưa Thầy có, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Matta biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng gió phải im lặng. Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ. Ngài truyền cho Ladarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa. Một số khác, nhất là các Biệt phái và các Thượng tế lại chống đối cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và quyết định kết án tử hình cho Chúa. “Thầy là sự sống lại và sự sống”, lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Ladarô sống lại là một trong những lời kỳ diệu nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Kitô giáo và những người vô thần ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó là chính nền tảng, và là hy vọng của cuộc đời. Là Kitô hữu, chúng ta tin có tội lỗi, tin vào thánh giá, tin có sự đau khổ và sự chết, tin vào ơn tha thứ, tin vào niềm vui, vào sự giải thoát, tin vào sự sống và sự sống lại. Chính vì thế mà tất cả những lời chứa đựng trong Kinh Thánh Tân ước được gọi là Tin Mừng. Chúa Giêsu Kitô chính là nội dung Tin Mừng. Thánh Phaolô thường gọi những lời thuyết giáo của Chúa là “Tin mừng Chúa Kitô” (x.1Tx 3,2; 1Cr 2,12; 4,4; 8,13; 10,14; Pl 1,27; Rm 15,19). Trong Tin Mừng bao giờ cũng nêu lên hai điểm chính yếu: Chúa Kitô đã chết và Ngài đã sống lại (x.1Tx 4,14; 2 Cr 13,4; Rm 4,24-25; 8,34; 14,9). Sống và chết là qui luật tuần hoàn và phát triển của muôn loài muôn vật. Vạn vật tuy biến hóa, thay đổi hình dạng, nhưng nguyên khí vẫn là một. Trong sự biến hóa, thì chết là để phát sinh sự sống mới, vì: “Nếu hạt lúa gieo vào lòng đất mà không chết đi, thì nó vẫn trơ trọi một mình; còn nếu chết đi, nó mới sinh được nhiều hạt khác” (Ga 12, 24). Như vậy: chết là điều kiện nhất thiết để triển nở và thành toàn; chết là một sự thay đổi cách thái hiện hữu ở một mức độ sung mãn hơn. Dựa theo qui luật tuần hoàn và phát triển đó, chúng ta cảm nhận cách sâu xa khi Chúa Giêsu nói về sự sống con người: “Ai yêu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai coi thường mạng sống mình ở đời này, thì sẽ giữ lại được cho sự sống đời đời.” (Ga 12, 25). Chết và sống lại đó là hai sự kiện căn bản không thể tách rời. Không thể có sống lại nếu không chết. Trái lại, nếu Chúa Kitô chết không sống lại thì nói như Thánh Phaolô “đức tin của chúng ta chỉ là trống rỗng” (1Cr 15,14), nghĩa là vô giá trị, giả dối. Chết và sống lại là hai sự kiện “bất khả phân”. Hai sự kiện của một mầu nhiệm Chúa Kitô. Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh cách tổng hợp, Chúa Giêsu vừa là Thiên Chúa quyền năng vừa là con người yêu thương. Ngài là Thiên Chúa, vì có quyền năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người nhân ái đến thăm gia đình quý mến có người yêu thương đã chết, trái tim Chúa rung động trước những muộn phiền niềm đau chia ly trước sự chết. Chúa “thổn thức trong lòng và xao xuyến”. Chúa đã khóc khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Chúa đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đó đã phải thốt lên: “Kìa xem! ông ta thương anh Ladarô biết mấy!”. Chúa đã cho Ladarô sống lại, hứa hẹn niềm hy vọng cho nhân loại: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy thì dù đã chết cũng sẽ sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa.Người “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống” (Mc 12,27). Ladarô đi vào đường hầm của sự chết. Chúa đã gọi Ladarô quay trở lại: “Ladarô, hãy ra đây!... Người chết đi ra, chân tay còn quấn những mãnh vải…”. Ladarô xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Trong Cựu Ước, ngôn sứ Êlia đã làm cho con trai của bà góa ở Sarépta sống lại (x.1V 17,17-24), ngôn sứ Êlisa cũng làm cho đứa con trai của bà Sunêm sống lại (x.2V 4,32-37). Trong Tân Ước, Phêrô đã làm cho bà Tabitha đã chết sống lại (x.Cv 9,39-42). Chúa Giêsu đã làm cho người chết sống lại ít nhất ba lần: cho con trai bà góa thành Naim (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô. Cũng như những người được hồng ân sống lại từ cõi chết, Ladarô sau này sẽ lại chết, người thân phải mai táng anh lần nữa. Chúa Giêsu đối đầu với sự chết ngay trong lãnh địa của nó. Ngài vào và ra khỏi đó như một người chủ vì Ngài nắm giữ chìa khóa sự chết và âm phủ (Kh 1,18). Ngài đã chịu chết nên Thiên Chúa đã ban triều thiên vinh quang cho Ngài (Dt 2,9); Ngài trở nên “trưởng tử giữa các vong nhân” (Cl 1,18). “Nhờ sự chết của mình, Chúa Giêsu đã giao hòa chúng ta với Thiên Chúa” (Rm 5,10) “để chúng ta được lãnh gia nghiệp đã hứa cho” (Dt 9,15). Đối với người Kitô hữu, chính cái chết thân xác mang một ý nghĩa mới. Chết không còn là một định luật con người đành phải tuân theo, đành phải chấp nhận hay một hình phạt do tội lỗi gây ra. Người Kitô hữu “chết cho Chúa”, như đã sống cho Chúa (Rm 14,7; Pl 1,20). Nếu họ hy sinh đổ máu để làm chứng cho Chúa, cái chết của họ là một hy lễ tiến dâng lên Thiên Chúa (1Tim 4,6) và đáng được triều thiên sự sống (Kh 2,10; 12,11). Từ chỗ là do định luật thiên nhiên đáng lo sợ, cái chết trở thành cõi phúc “Phúc thay những người chết trong Chúa” (Kh 14,13), để được sống đời sống mới và ở đó “không còn sự chết nữa” (Kh 21,4). Đối với những ai sống lại với Chúa Kitô sẽ không có “cái chết lần thứ hai” (Kh 20,6). Như thế đối với người Kitô hữu, chết là một phúc lợi vì được chính Chúa Kitô là sự sống (Pl 1,21). Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Chúa Giêsu hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Chúa Giêsu đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25; 1Cor 15,16-19). Chúa Giêsu đã đưa ra một chiều kích hiện sinh mới, mở ra cho ta con đường tiến tới chân lý sự sống bằng sự chết mà Ngài đã thực hiện. Chính sự tử nạn và phục sinh của Ngài làm cho mọi cái chết trở thành Tin Mừng của sự sống. Chúa Giêsu không chỉ yêu thương chúng ta bằng tình yêu thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, quảng đại và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Sự chết và sống lại của Chúa Giêsu Kitô không những đã chuộc lại những gì con người đã mất do tội lỗi nhưng còn là một cuộc sáng tạo. Nhờ sự chết và sống lại mà Ngài đã nối nhịp cầu hiệp thông liên kết giữa Thiên Chúa và con người, thiết lập một tương quan mới Cha con. Nhân loại từ đây không những được ơn tha thứ, được gột rửa sạch tội lỗi để khỏi án chết đời đời, nhưng còn được trở nên con cái Thiên Chúa, được gọi Người là Abba, Cha ơi (Rm 8,15). Sự sống mà Thiên Chúa ban cho con người khi sáng tạo là sự sống trong tương quan giữa Hoá Công và thọ tạo. Sự sống mà Chúa Kitô đem lại cho con người là sự sống trong tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và loài người được nâng lên địa vị làm con. Sự sống “tự nhiên” là một thực tại khách quan. Sự sống mới hay sự sống”siêu nhiên” là một trạng thái ân tình mà con người phải đi vào để được thực sự thông hiệp với Thiên Chúa. Tin và sống trong ân tình Chúa Kitô chính là chiến thắng sự chết, là mang trong mình mầm mống của sự sống đời đời. “Ai sống và tin vào Thầy thì sẽ không bao giờ chết” (Ga 11, 26; 1Ga,14). “Không bao giờ chết” là không bao giờ mất hiện hữu trong tương quan với Ba Ngôi Thiên Chúa, không bao giờ mất sự sống trong tương quan ân tình với Người. Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm đức tin cho chúng con. Xin cho chúng con được sống lại trong niềm tin vào Chúa để chúng con được sống dồi dào trong tình thương của Chúa. Amen. 30. Sự Sống. Sự Phục Sinh--Lm. Trầm PhúcTrong hai tuần liên tiếp, chúng ta đã nghe tường thuật hai phép lạ cả thể của Chúa Giêsu: Chúa chữa người mù từ khi mới sinh và cho Ladarô sống lại. Hai phép lạ này chỉ có Gioan kể lại, các phép lạ khác đã có các thánh sử khác tường thuật, Gioan không cần phải kể lại. Và hai phép lạ này mang một ý nghĩa độc đáo và mạc khải cho chúng ta thấy khuôn mặt thần linh của Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian và là sự sống. Hai phép lạ cùng một ý hướng như nhau: để vinh quang của Chúa được tỏ hiện. Công việc của Chúa là cứu vớt trần gian khốn khổ này, đem ánh sáng cho con người đang chập choạng trong đêm tối, mang lại sự sống và sự sống thật cho người đã chết trong tội. Chúa Giêsu biết Ngài muốn làm gì và làm như thế nào, làm như Ngài đã có chương trình của Ngài, và Ngài thực hiện từng chi tiết, tuần tự, dẫn nó đến cùng đích Ngài muốn. Thánh Gioan nói rõ: “Ngài quí mến ba chị em Matta”. Thế nhưng tại sao Ngài chậm trễ đến nỗi ba chị em phải đi ngang qua thử thách đau đớn như thế? Đây phải chăng là ý muốn của Ngài: “Để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa; qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh”. Những người thân của Ngài đều được mời gọi thông phần vào sứ mệnh cứu rỗi của Ngài nhờ đau khổ. Chị em Matta được mời gọi bước vào chương trình của Ngài bằng đau khổ, và các môn đệ cũng bước vào con đường đó. Tất cả những người có liên hệ mật thiết với Ngài đều phải thông phần đau khổ của Ngài, chia sẻ mầu nhiệm của Ngài như Mẹ Maria, như các môn đệ sau này. Chị Matta đã sai người đến với Chúa Giêsu và báo cho Ngài biết: “Người Thầy thương đang bệnh”. Nhưng hình như Ngài không để ý gì đến tin đó và lại nói rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết”, và Ngài vẫn tiếp tục rao giảng ở đó thêm hai ngày mới nhắc đến tình trạng của Ladarô. Ngài cũng không nói rõ chỉ nói một cách mơ hồ: “Bạn Ladarô của chúng ta đang yên giấc”. Các môn đệ không hiểu. Lúc đó Ngài mới nói thật: “Ladarô đã chết. Thầy mừng cho anh em, vì Thầy không có mặt ở đó, để anh em tin”. Câu này thật quan trọng: “Thầy mừng cho anh em… để anh em tin”. Điều này chứng tỏ, Chúa Giêsu muốn dùng cái chết của Ladarô để giúp đức tin của các môn đệ, cũng như trong tiệc cưới ở Cana, thánh Gioan đã nói: “Các môn đệ tin Ngài”. Điều quan trọng mà Ngài luôn chú ý là củng cố niềm tin cho các môn đệ. Lúc này là lúc Ngài sắp bước vào giai đoạn cựu kỳ quan trọng của đời Ngài, Ngài sắp bước vào cuộc thử thách nặng nề, cần phải củng cố đức tin của các môn đệ để khi việc xảy đến, các ông sẽ vững tin hơn. Khi Chúa đến Bêtania, thì Ladarô đã nằm trong mộ bốn ngày rồi. Matta ra đầu làng đón Ngài bằng một câu như trách móc: “Nếu Thầy có ở đây thì em con không chết”. Cuộc đối thoại diễn ra ngắn ngủi thôi, nhưng đầy ý nghĩa, tập trung vào một vấn đề duy nhất: “Con có tin không”? Tin rằng Thầy là sự sống lại và là sự sống không? Chúng ta có tin không? Chúng ta dám tuyên xưng như cô Matta không: “Thưa Thầy, con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến trong thế gian”. Cuộc sống của chúng ta có thể hiện được niềm tin như thế không? Hay chúng ta nói tin mà lòng chúng ta không mấy xác tín? Thánh Phaolô cũng tin như chúng ta, đến nỗi “đối với Ngài, sống là Chúa Kitô”. Matta trở về nhà báo tin cho Maria: “Kìa Thầy đến và gọi em”. Maria vui mừng chạy ngay vì cô cùng mấy chị em hàng xóm đang khóc. Gặp Thầy, Maria chỉ nói được một lời y như chị Matta: “Nếu Thầy ở đây thì em con không chết!” Cô òa lên khóc. Các chị em đi theo cô cũng khóc. Chúa Giêsu, đứng trước sự bùng nổ của niềm đau cũng không cầm được nước mắt. Những giọt nước mắt hiếm hoi của Thầy! Thầy khóc vì thấy Maria tiều tụy thảm thương. Ngài biết nỗi đau của Maria, nàng phải hy sinh vì vinh quang của Thiên Chúa. Ngài đã đòi hỏi sự hy sinh đó. Maria, cô con gái liếng thoáng và trầm tư đã từng ngồi dưới chân Ngài để nghe lời Ngài giảng dạy, hôm nay chỉ là hiện thân của đau khổ. Chúa Giêsu đến trước mộ của Ladarô. Ngài khóc. Người Do Thái ngạc nhiên và cho rằng Ngài thương Ladarô đặc biệt, nhưng Ngài không chỉ khóc vì Ladarô, Ngài nhìn xa hơn. Ngài nhìn thấy Ladarô là hiện thân của một nhân loại đang tan rữa trong tội ác. Ngài khóc cho một nhân loại đang đi dần đến vực thẳm hư mất. Ngài đến là để vực dậy một nhân loại đã băng hoại trong ách nô lệ tội lỗi. Sau giây phút mềm lòng, thái độ Chúa Giêsu thay đổi hẳn. Ngài trở nên hiện thân của quyền uy, một thứ quyền uy lạ lùng sẽ làm mọi người kinh hãi, đã làm cho bão tố im lặng, đã vực dậy chàng thanh niên con bà góa thành Na-in đã chết. Ngài ra lệnh: “Đem phiến đá này đi”. Chị Matta hoảng hốt can thiệp: “Thưa Thầy, nặng mùi rồi vì đã bốn ngày rồi”. Ngài đáp với một giọng uy quyền rõ rệt: “Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng, nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” Sau khi cầu nguyện, Ngài ra lệnh: “Ladarô, ra đây!” Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải… Chúng ta làm sao hiểu được niềm vui của chị em bà Matta! Chúng ta làm sao biết được phản ứng của những người chứng kiến dấu lạ! Tất cả đau khổ, buồn sầu biến tan trong niềm vui phục sinh. Không thể nào tưởng tượng được. Một người chết đã bốn ngày, giờ đây sống lại! Một việc vĩ đại chưa từng xảy ra. Chỉ cần một lời nói, mọi sự đã biến đổi. Những hy sinh của chị em Ladarô không vô ích. Thánh Gioan tóm gọn trong một câu: “Tất cả những người đến thăm cô Maria và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm, có nhiều người đã tin vào Người. Đây là kết quả mà Chúa Giêsu nhắm tới khi để Ladarô chết: khơi lên đức tin của những người chung quanh. Chúng ta tin không? Chúng ta có tin rằng Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống không? Chúng ta sẽ còn thấy một sự lạ cả thể hơn. Chính Chúa Giêsu sống lại vinh hiển. Cái chết và sự sống lại của Ladarô báo trước cái chết và sự phục sinh của Ngài. Ngài là sự sống và là sự sống thật. Ngài ban chính mạng sống của Ngài và Ngài có quyền lấy lại. Ngài đến trần gian là để chúng ta được sống vì chúng ta đã chết trong tội, được sinh ra trong tội. Chúa Giêsu là vị cứu tinh duy nhất của chúng ta. Tin vào Ngài, chúng ta mới được sự sống mới. Thánh Phaolô luôn nói đến sự sống mới này.Muốn được sống đời đời, phải bám vào Đấng là sự sống lại và là sự sống, phải bỏ mình, vác thập giá. Chúng ta muốn được sống không? Hay cuộc sống hôm nay đã cuốn hút chúng ta làm cho chúng ta chỉ biết lo củng cố cuộc sống vật chất mà thôi? Hôm nay, hãy đến với Đấng ban sự sống, Đấng ban nước hằng sống. Ngài đã đến với chúng ta qua tấm bánh nhỏ nơi bàn thờ, nhưng đó chính là Bánh Hằng Sống. Ăn lấy Chúa để đươc sống và được sống dồi dào. Trần gian chỉ là tro bụi. Hãy tìm Nước Thiên Chúa, và mọi sự khác sẽ được ban cho chúng ta. 31. Chúa cho Lazarô sống lại--Lm. Giuse Đỗ Văn ThụyTin Mừng Ga 11: 3-7.17.20-27.33-35: Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá... Bêtania ở phía đông núi Ôliu, cách Giêrusalem 3 cây số. Đây là nhà của ba chị em Matta, Maria và Lazarô. Với Chúa Giêsu, Bêtania trở thành một nơi rất quen thuộc. Chúa nhiều lần đã qua lại nơi đây sau những ngày rao giảng mệt nhọc, nhất là sau khi cảm nếm sự cứng lòng của những người lãnh đạo Do Thái, khiến Người có cảm giác như bị thất bại và ruồng bỏ. Tình bạn giữa Chúa Giêsu và những thành viên trong gia đình Bêtania thật là thắm thiết, đến nỗi khi Lazarô đau nặng, hai chị em đã cho người báo tin cho Chúa: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng” (Ga 11,3). Lazarô đã chết, thế là Chúa Giêsu lên đường trở về Giuđêa, mặc dầu trước đó không lâu suýt nữa Chúa Giêsu đã bị ném đá. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu đã thương mến ba chị em như thế nào. Rồi qua diễn tiến câu chuyện chúng ta càng thấy rõ tâm tình của Chúa Giêsu dành cho gia đình này. Chúng ta nghe tiếp câu chuyện: khi nghe tin Chúa Giêsu đến với gia đình, Matta đã đi đón Người: ”Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Sau đó bà về gọi Maria, em gái bà và nói với em rằng: “Thầy ở ngòai kia, Thầy gọi em”. Maria đến gặp Chúa và cũng lặp lại lời của Matta: “ Thưa Thầy, nếu Thầy ở đây thì em con không chết”. Khi thấy bà khóc và những người Do Thái bà cũng khóc, Chúa Giêsu thổn thức, xúc động và đã rơi lệ. Một cảnh tượng thật cảm động. Một cảnh tượng cho thấy Chúa Giêsu thực là một con người. Một con người với tất cả những gì là tự nhiên nhất của nó. Chính ở đây cho chúng ta thấy: Một Thiên Chúa đã phản ứng như một con người. Phải, chúng ta có một Thiên Chúa, một Thiên Chúa rất gần với con người. Một Thiên Chúa sống giữa con người. Một Thiên Chúa biết chia sẻ những mất mát lớn lao của những người thân trong gia đình. Người đã rơi lệ. Một Thiên Chúa biết rung cảm với một gia đình mà ở đó chỉ có ba chị em. Hai người chị và một đứa em trai. Bây giờ đứa em trai đã chết. Quả thật, một sự mất mát vô cùng lớn đối với hai người chị này. Và làm sao an ủi được hai chị em này. Thế là Chúa đã khóc. Chúa đã rơi lệ. Những giọt nước mắt rơi xuống. Những giọt nước mắt của một con người, nhưng cũng là một Thiên Chúa. Tất cả đều hé mở cho chúng ta một điều vô cùng quan trọng: Không có một tôn giáo nào lại có một vị thần minh ở với con người như Chúa Giêsu ở với chúng ta. Phải, một Thiên Chúa đã đến ở với con cái loài người. Và vị Thiên Chúa đó đã cảm nhận được những nỗi đau thương, những nỗi thống khổ cũng như những mất mát của con người. Và một phép lạ đã xảy ra: Lazarô đã sống lại. Sự sống lại của Lazarô muốn nói với chúng ta điều gì? Dĩ nhiên sự sống lại của Lazrô nói lên quyền năng của Chúa Giêsu, nhưng đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về cuộc sống mai hậu. Trong chúng ta không có ai có kinh nghiệm về sự sống lại, nhưng mấy năm gần đây, một số bác sĩ người Đức và Mỹ đã chú ý đến hiện tượng mà họ gọi là "kinh nghiệm cận tử" (near death experience): nhiều người vì một tai nạn hay vì một lý do gì đó làm họ ngất đi trong một thời gian khá lâu. Về mặt thể lý, coi như họ đã chết, nhưng sau đó họ sống lại. Các bác sĩ đã phỏng vấn 1.370 trường hợp. Trong những điều họ thuật lại, có những điểm chung sau đây: - Họ không còn sợ chết nữa. - Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. - Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người.[1] Kinh nghiệm của những người cận tử là họ không còn sợ chết nữa, nhưng ai trong chúng ta vẫn sợ hãi khi cái chết đến với chúng ta. Một câu chuyện kể rằng: Có người kia rất giầu sang phú qúi. Một hôm, ông tìm đến hang đá của vị ẩn tu nổi tiếng là thánh thiện và được đặc ân có đường dây liên hệ trực tiếp với Chúa. Người phú hộ xin vị ẩn tu cầu nguyện cho mình và hỏi Chúa xem sau khi chết ông có được vào thiên đàng hay không. Lời thỉnh xin của người phú hộ xem ra hơi khác thường, nhưng vì người ấy cứ nài nỉ, nên vị ẩn tu chấp nhận sẽ cầu nguyện với Chúa cho ông, với điều kiện là cho thêm ít hôm để cầu nguyện với Chúa. Một tuần lễ sau, nhà phú hộ trở lại với vị ẩn tu để được nghe lời Chúa muốn nói với ông. Vị ẩn tu nói: - Tôi đã được Chúa cho biết điều ông mong ước cầu xin. Nhưng có một tin vui và một tin buồn, vậy ông muốn nghe điều nào trước? Tin vui hay tin buồn? Nhà phú hộ phân vân suy nghĩ một lúc. Sau đó chọn xin cho biết tin vui trước. Vị ẩn tu đáp: - Tin vui là ông sẽ được rỗi linh hồn và sẽ được lên thiên đàng. Nghe vậy, nhà phú hộ vui mừng thích chí lắm và tự nhủ: ”Ngoài tin vui mừng lớn lao này, trên đời này còn gì phải là tin buồn nữa”. Như bị tính tò mò thôi thúc, nhà phú hộ hỏi thêm cho biết: - Tin buồn là gì? Vị ẩn tu đáp: Có lẽ tin buồn mà ông không muốn nghe nói tới, đó là ông sẽ phải chết ngay hôm nay.[2] Bình thường thì ai cũng sợ chết, nhưng với kinh nghiệm của những người cận tử đã cho chúng ta thấy: - Họ không còn sợ chết nữa. - Cuộc sống ở "cõi bên kia" hạnh phúc hơn cuộc sống ở đời này. - Họ không còn ham muốn kiếm tiền bạc, danh vọng và lạc thú nữa. Điều duy nhất mà họ quan tâm là sống yêu thương, quảng đại, phục vụ mọi người Những điều nghiên cứu trên đây thật là một điều quí giá cho chúng ta. Nếu ai trên trần thế này cũng sống như kinh nghiệm của những người "cận tử" thì chúng ta thấy quả là thiên đàng đã xuất hiện ngay trên trần gian này rồi. Amen. ------------------------ [1] Willie Hoffsuemmer [2] R. Veritas, Ánh sáng thế gian, trg. 151 32. Lưỡi hái hay chìa khóa vàng?--‘Niềm Vui Chia Sẻ’--R. VeritasThánh Charles Borrômê sống ở Italia trên 400 năm trước đây (1538-1584). Khi còn trẻ, Borrômê đầy những tước vị, danh vọng. Nhưng một lúc Borrômê đã nhận ra ngày nào đó, Ngài sẽ phải bỏ tất cả. Ngài muốn ghi khắc điều đó, nên nhờ một họa sĩ nổi tiếng vẽ bức bích họa trong tư thất để diễn tả cái chết. Bức họa hoàn thành: họa sĩ trình bày thần chết theo lối cổ điển: một bộ xương người nắm chặt lưỡi hái trong tay. Borrômê ngạc nhiên: “Tại sao họa sĩ hình dung cái chết bằng chiếc lưỡi hái?” Họa sĩ đáp: “Vì thần chết cắt hái mọi cuộc sống. Cái chết hủy hoại mọi cuộc đời.” “Đồng ý”, Borrômê nói, “nhưng thần chết cũng mở cửa Nước Trời nữa chứ. Cái chết là cửa ngõ vào đời sống tốt đẹp hơn. Vì thế, tôi đề nghị họa sĩ xóa chiếc lưỡi hái đi và đặt vào tay thần chết chiếc chìa khóa vàng.” Phải, Chúa Kitô đã chết và đã sống lại. Thập giá là chìa khóa Nước Trời. Thần chết đã buông lưỡi hái và cầm lấy chiếc chìa khóa vàng. Cửa Trời đã mở ra cho con người vào Nhà Cha. Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu đã tuyên bố: “Tôi là sự sống lại và là sự sống”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu trước khi làm cho Lagiarô sống lại là một trong những lời “lạ tai” nhất đối với người thời đại cũng như bao người ngoài Thiên Chúa giáo và những người không tin ngày nay. Nhưng đối với chúng ta, lời tuyên bố đó chính là nền tảng và hy vọng của cuộc đời. Chúa Giêsu tuyên bố: “Tôi là sự sống. Ai đang sống mà tin tôi sẽ không bao giờ chết”. Chúa không nói đùa. Chúa không thể đùa với sự chết, vì nó hoàn toàn trái nghịch với Ngài. Là sự sống và đến để đem lại sự sống, Chúa không thể muốn sự chết cho con người. Phép lạ cho ông Lagiarô sống lại làm chứng rằng Ngài có quyền ban sự sống. Không phải sự sống như đám đông bao quanh Ngài thầm nghĩ – sống một thời gian rồi chết – cũng không phải sống lại ngày tận thế mà thôi, như Matta tin tưởng, mà là sống ngay bây giờ và sống đời đời, như Ngài đã nói: “Ai nghe lời Tôi và tin vào Đấng đã sai Tôi thì được sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng được từ cõi chết mà qua cõi sống” (Ga 5,24). Vậy là có một sự sống khác. Có một sự sống thật. Sự sống ấy đã bắt đầu từ bí tích Rửa Tội và tiếp tục mãi đến đời đời. Sự sống thật này không mất đi khi con người chết, nhưng chỉ mất đi bởi tội lỗi (Ga 8,21). Tội lỗi mới là cái chết thật. Và ngược lại, cái mà chúng ta coi là sống chưa hẳn là sống. Chỉ khi nào sống bằng chính sự sống của Chúa thông ban cho, lúc đó mới là sống thật và bảo đảm sống đời đời ngan qua cái mà chúng ta gọi là chết. Thánh Phaolô, trong bài đọc 2 hôm nay (Rm 8,8-11) đã nói đến tình trạng những người “sống mà như chết” và “chết mà vẫn sống” đó: “Ai sống theo xác thịt, tội lỗi, thì dù có sống cũng như chết; ngược lại, ai sống theo Thánh Thần thì dù có chết cũng vẫn sống; hơn nữa, một ngày kia, Đấng đã cho Đức Kitô phục sinh cũng sẽ cho thân xác của những kẻ sống theo Thánh Thần được sống lại”. Thưa anh chị em, Một người nhắm mắt xuôi tay từ giã cõi đời này được coi là chết. Nhưng nhiều người đang sống vẫn tự coi mình đã chết. Vì sống mà không có hy vọng, sống không tình thương, sống mà bị đời bạc đãi, phản bội, sống không ra con người, và nhất là sống trong tội ác. Sống như vậy, con người không cần đợi đến chết mới là chết. Chúng ta khóc thương người chết, nhưng biết đâu người sống lại chẳng đáng khóc thương hơn? Bất cứ ai đã thoát khỏi tội lỗi và sống trong ân sủng thì đang sống trong sự sống đời đời rồi. Sự chết thể xác không làm gián đoạn được sự sống thân thiết với Thiên Chúa trong Nước Trời. Sự sống lại ngày tận thế, sự sống vinh quang đời sau đã bắt đầu ở hiện tại như cây trái đã bắt đầu trong hạt giống. Từ Lời Chúa hôm nay, chúng ta mới có được một cái nhìn lạc quan hơn về thân phận con người chúng ta. Là tội nhận, là loài người phải chết, nhưng chúng ta đã được Con Thiên Chúa xuống thế làm người mạc khải tình yêu thương của Thiên Chúa cho chúng ta và Ngài đã thực hiện công việc cứu chuộc của Thiên Chúa giữa chúng ta và cho chúng ta. Cuối cùng, bằng chính cái chết và cuộc Phục Sinh của Ngài, Ngài đã giải thoát chúng ta khỏi chết đời đời và cho chúng ta được tham dự vào sự sống bất diệt của Thiên Chúa. Như thế, đối với chúng ta, những người đã tin nhận Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế và đang cố gắng sống Lời Chúa dạy, thì sống hay chết, không thành vấn đề, mà chỉ có một thực tại duy nhất là sống, sống trong Chúa, sống cho Chúa, sống thuộc về Chúa. Cái chết chẳng qua chỉ là bước vượt qua từ đời sống trần gian đến đời sống vinh quang vĩnh hằng với Chúa Cha trên trời. Chính vì có sự liên tục giữa hai cuộc sống mà đời sống trần gian này mới có ý nghĩa và mới quan trọng, đòi hỏi mỗi người chúng ta phải sống làm sao cho cuộc sống trần gian này là khởi điểm, là bảo đảm, là dấu chứng cho cuộc sống mai sau. Anh chị em thân mến, Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng mà trần gian này dù đen tối đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo. “Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta đứng vững trước mọi đau khổ thử thách, ngay cả cái chết. Đồng thời niềm tin ấy thúc đẩy chúng ta đến với anh em, để góp phần mang lại sự sống dồi dào cho anh em. 33. Lagiarô sống lại--‘Sống Tin Mừng’--R. VeritasHôm nay đã là Chúa Nhật V Mùa Chay và Chúa Nhật tới đây là Chúa Nhật Lễ Lá bắt đầu Tuần Thánh. Tuần chúng ta được mời gọi suy niệm nhiều hơn và cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa. Bài Phúc Âm hôm nay như là một chuẩn bị cho chúng ta để cử hành mầu nhiệm chết và sống lại của Chúa. Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, chúng ta cũng sẽ phải chết và được sống lại với Chúa. Khi nói về sự sống lại thì nhiều người anh chị em chúng ta có lẽ nghe khó tin. Mới đây tập hợp điều tra về niềm tin của những người công giáo bền Italia về sự sống đời sau sau cái chết, kết quả cho biết rằng, mặc dù đa số tin có Thiên Chúa, nhưng khi được hỏi về niềm tin của họ vào sự sống đời đời thì họ tỏ vẻ do dự. Quan tâm của họ về sự sống đời đời xem ra như càng ngày càng ít đi, dường như có hai hoàn cảnh làm cho con người dễ xa lìa Thiên Chúa, quên đi cuộc sống đời đời. Đó là khi con người giàu sang, quyền quí hoặc khi gặp cảnh cùng cực thái qúa. Giàu quá dễ bị cám dỗ quên Chúa và nghèo quá cũng làm con người tuyệt vọng. Bài Phúc Âm hôm nay ghi lại biến cố Chúa Giêsu đến với gia đình chị em Martha, Maria và Lagiarô để mạc khải cho họ sự thật căn bản về sự sống đời đời: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ". Vào hoàn cảnh mà Chúa Giêsu chọn để mạc khải sự thật này cho chị em Martha, Maria là cái chết của Lagiarô, người được Chúa thương. Đây có thể nói là một biến cố không thuận lợi chút nào, Lagiarô đã bị đau cần Chúa đến nâng đỡ chữa trị thì Chúa không đến, xem ra như lơ là hai chị em đã nhắn tin cho Chúa Giêsu biết hoàn cảnh đau yếu của Lagiarô, nhưng Chúa vẫn trì hoãn không đáp lại. Một thử thách cho người bạn của Chúa, chờ đợi Chúa mau mắn đáp lại và ỷ lại vào tình bạn với Ngài, nhưng Chúa đã không đáp lại như lòng họ mong ước: "Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết". Rồi sau khi Lagiarô chết rồi, gia đình Martha và Maria đang sống trong sự tang chế đau buồn thì Chúa lại đến, và thay vì nói lời an ủi hay là một điều gì liền ngay theo như mong ước thường tình của con người trong hoàn cảnh tương tự như vậy, thì Chúa Giêsu lại nói điều mà Martha và Maria cả hai người đều không nghĩ đến, đó là Chúa mạc khải sự thật và sự sống đời đời, kêu gọi hãy tin vào Chúa, tin vào sự thật Chúa mạc khải: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta sẽ không chết bao giờ". Có thể nói là những lời chói tai, không hợp thời, lạc đề xem từ phía con người đang phải chịu thử thách, đang gặp phải những đau thương: "Nếu Thầy có mặt thì em con không chết". Sự đáp trả của hai chị em Martha, Maria và của hai người Do Thái đến chia buồn lúc đầu chưa được trọn hảo. Martha nghĩ đến sự sống lại ngày sau hết, còn hai người Do Thái có mặt ở đó quan sát xem Chúa Giêsu có làm gì để thay đổi hoàn cảnh hay không? Martha và Maria ra khỏi hoàn cảnh cụ thể của mình để đến với Chúa, để gặp Chúa ở nơi mà Chúa muốn ở ngoài hoàn cảnh tang thương, tang chế của họ vào lúc đó để được Chúa hoán cải, để tuyên xưng: "Lạy Thầy, con tin". Chúng ta đã biết những gì xảy ra sau lời tuyên xưng đức tin đầy khiêm tốn và can đảm của hai chị em Martha và Maria. Sống mà không có niềm tin thì kể như là đã chết. Trong biến cố mà Phúc Âm thánh Gioan ghi lại cho chúng ta hôm nay, chúng ta thấy Chúa Giêsu làm phép lạ không phải chỉ cho Lagiarô được sống lại mà thôi, mà cho ba người được sống lại, đó là Martha, Maria và Lagiarô. Sống lại đầu tiên đó là sống lại với niềm tin vào Chúa, có thể nhiều người trong chúng ta cũng đã chết trong niềm tin vào Chúa và không còn tin Chúa nữa. Chúng ta cần Chúa cho chúng ta sống lại, sống lại trong niềm tin vào Ngài như Martha, Maria: "Lạy Thầy, con tin". Nhờ lời tuyên xưng của Martha và Maria mà tiếp sau đó Chúa Giêsu cho Lagiarô trở lại cuộc sống. Tất cả qui hướng chúng ta về quan điểm cuối cùng, đó là Chúa Giêsu làm Con Thiên Chúa, là Thiên Chúa, Ngài là Chúa, là chủ của sự sống và có quyền năng trao ban sự sống cho con người. Vì biến cố phép lạ Lagiarô chuẩn bị cho biến cố lạ lùng nhất sắp diễn ra là biến cố chính Chúa chết và sống lại mà chúng ta sẽ cữ hành trong Tuần Thánh sắp đến. Chúa chết và sống lại để hoàn tất công trình cứu chuộc con người, để ban cho chúng ta được sống và sống lại với Chúa: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống và tin vào Ta sẽ không chết bao giờ. Con có tin điều đó không?" Chúa Giêsu sẽ hỏi chúng ta: phần con, con có tin điều đó hay không? Ước chi mỗi người chúng ta cũng được khiêm tốn thưa như Martha, như Maria: Lạy Chúa, con tin. Đức tin làm cho con được sống thật, dù chết hay sống nếu con tin thì không còn gì phải lo lắng nữa. Xin Chúa hãy cho chúng ta được sống lại trong niềm tin của mình vào Chúa để rồi chúng con được sống và sống lại với Chúa mai sau. Amen. 34. Hãy ra khỏi sự chết--Lm. Nguyễn Khoa ToànNgười em trai báo tin ông cụ thân sinh tôi bị té nặng và đang nằm trong phòng cấp cứu của bệnh viện tỉnh Khánh Hoà, ngay trước giờ tôi chuẩn bị bài nói chuyện với các em thuộc Liên Đoàn Thanh Niên Công Giáo hôm Đại Hội cuối tháng hai vừa qua. Tiêu đề bài nói chuyện hôm ấy là "Mục Đích Đời Sống". Và mục đích của đời sống công giáo chân chính là gì nếu không phải là sống chết cho nhau, nhất là cho những người đã dày công dưỡng nuôi mình khôn lớn... Và tôi đã đáp chuyến bay sớm nhất về lại Sàigòn. Rồi thuê một cuốc xe chạy ngày đêm ra Nha Trang. Vào ngay bệnh viện, ông cụ nhận ra tôi ngay -tuy vẫn còn mê man lắm- và ra hiệu muốn nắm lấy tay tôi. Tay đứa con tha phương quyện trong đôi bàn gầy guộc chai cứng theo ngày tháng của người cha già một đời lam lũ hy sinh vì đức tin và vì lý tưởng. Rồi đôi mắt nhoà đẫm lệ, ông cụ hôn tay tôi -như một nụ hôn giả từ vĩnh biệt... Tôi đã chuẩn bị tinh thần ngay từ khi đuợc báo tin. Nhưng sáng hôm sau, vào lại phòng cấp cứu, ông cụ tỉnh hơn đôi chút. Rồi lạ lùng thay, ông cụ thều thào nói chuyện, kể cho tôi nghe là ông cụ đã đi đến một chỗ nào đó cao xa:. "Ba thấy toàn một màu trắng. Rồi thấy rất nhiều bà Sơ. Nhưng chẳng thấy ông cha nào cả!" Tôi phá lên cười: "Con biết tại sao rồi!" Ai cũng cừời theo, trừ ông cụ. Và hình như vẫn còn mãi mê về một chỗ cao xa trắng xoá tinh tuyền nào đó, ông cụ ra hiệu cho tôi ghé tai gần: "Ba biết Ba chưa chết!" Tôi liền trấn an, vững tin như Martha về Lagiarô: "Không! Ba không chết đâu!" Phải cấy niềm tin và sức mạnh cho ông cụ, như Chúa Giêsu đã cấy cho Martha hai ngàn năm trước, tôi nhủ lòng mình. Một điều tôi cảm xúc nhất về câu chuyện Lagiarô, là khi Chúa Giêsu nói cùng Martha: "Ta Là Sự Sống". Sự Sống. Ngay chính giữa cảnh chết chóc khóc lóc tang thương, Chúa đến mang sự sống; ngay giữa lúc khóc than, Chúa mang đến nụ cười. "Ta Là Sự Sống": Ta Là. Không Ta Đã Là hoặc Ta Sẽ Là. Ta Là: Hiện Tại; Bây Giờ. Vì với Chúa không thể có quá khứ và chẳng bao giờ có tương lai. Không thể chết, nếu tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại. Không thể chết, vì chết chỉ là một phần của đời sống trường sinh miên viễn... Sắp bước vào Tuần Chay Thánh, và một lần nữa, câu chuyện người chết sống lại Lagiarô là một lời cảnh báo vừa nghiêm khắc vừa xúc động: là không thể có sự sống đời sau nếu không trọn vẹn và thành tín sống đời sống đời này. Không thể có tương lai hằng cữu nếu hiện tại chỉ là một con số không rỗng toác! "Ta Là Sự Sống": nếu chúng ta đợi chờ sống đời sống trường sinh chỉ sau khi đã nhắm mắt xuôi tay thì chắc chắn đó là điều vô cùng ảo tưởng... Là con người như bao con người, Chúa xúc động trước cái chết của Lagiarô: Người rơi lệ. Nhưng Người đã không để cho những bức xúc nhân tính lu mờ đi bản chất thiên tính của mình, như Lời Kinh Tiền Tụng: "Là người thật, Chía Kitô đã khóc Lagiarô, bạn hữu Người; là Thiên Chúa hằng sống, Người đã truyền cho Lagiarô sống lại ra khỏi mồ." Nói một cách khác, giữa những đớn đau mất mát về vật chất xác thịt kia, điều tưởng chừng như phải khóc than đau buồn là khi niềm tin vào Sự Sống và Sự Sống Lại đã phai nhoà mai một. Chúng ta phải khóc, phải buồn, phải xót thương khi người thân không còn nữa. Nhưng những giọt nuớc mắt và nỗi buồn kia phải quyện trong một niềm tin sắt đá là Sự Sống và Sự Sống Lại đã tiêu diệt sự chết 2000 năm trước đây trên đồi Golgotha cô liêu hoang vắng. Điều cảm xúc và đáng suy nghĩ khác là khi Chúa Giêsu phán: "Lagiaro! Hãy ra đây!" Đó là một lệnh truyền! Hãy ra khỏi sự chết và hãy bước vào -mạnh dạn bước vào- Sự Sống. Và vì thế, khi tâm trí dày đặc những ý tưởng sợ hãi, lo âu, buồn phiền, thất vọng; khi phải diện đối diện với những dục vọng vật chất xác thịt thấp hèn; khi phải vật lộn với những đam mê bất chính, những giả hình hèn kém vong nô, hãy nghe lệnh Chúa phán truyền với chính mình: "Bạn! Hãy ra đây!" Và chúng ta phải nghe lệnh truyền ấy. Nghe và bước ra khỏi những hang mộ tối tăm kia, như Lagiarô đã nghe và đã bước ra từ mộ chết đời mình. Hãy đừng chần chừ! Hãy không do dự. Hãy mạnh dạn bước ra vì cuối đuờng hầm, Chúa Giêsu -Sự Sống và Sự Sống Lại- đang giang rộng tay chào đón. Khi chúng ta khiêm cung nhận biết mình là phận hèn vật mọn, Thiên Chúa trong tâm hồn chúng ta quyền phép đến vô cùng... 35. “Ta là sự phục sinh của ngươi”--André SèveTrong buổi nói chuyện với Matta, Chúa Giêsu đòi hỏi có một tiếng khẳng định quan hệ giữa chúng ta với Ngài: - Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dầu có chết cũng sẽ sống; hễ ai sống và tin Ta sẽ không bao giờ chết. Con có tin như vậy không? Dĩ nhiên chúng ta nhanh chóng trả lời “Có! Ngài là sự sống”. Nhưng sự sống nào? Chúng ta là những người đang sống. Ngài thêm gì vào sự sống của chúng ta? Thực ra, chúng ta là những sinh vật nhỏ bé bị cái chết rình rập. Chúa Giêsu muốn làm chúng ta trở thành những kẻ chiến thắng sự chết. Trong trần thuật dài và bi thảm nói về sự sống lại của Lagiarô, ba cái chết được gợi ra và xen lẫn vào nhau: cái chết của Lagiarô, cái chết của Chúa Giêsu và cái chết của chúng ta. Trong khi đi tới nhà Lagiarô, Chúa Giêsu biết rằng cái chết cũng đang đe dọa Ngài: “Người Do thái muốn ném đá Thầy, sao Thầy còn quay trở lại đó nữa?”, các môn đệ nói với Ngài như thế. Khi thấy Maria quá buồn khổ, Chúa Giêsu cũng bối rối cảm động. Ngài cảm thấy sâu sắc sự tuyệt vọng của thân phận con người, Ngài khóc bạn, Ngài thông hiệp với nỗi khổ của các chị của bạn và nghĩ đến cái chết của mình đang đến gần. Chưa bao giờ Ngài chìm đắm trong nỗi buồn khổ của chúng ta như thế. Những người chung quanh nói: “Kìa, Ngài yêu bạn mình biết bao!” Nhưng họ ngạc nhiên, cả chúng ta nữa: “Chẳng phải Đấng quyền năng đã nói: Ta đến để mang lại sự sống cho các ngươi. Ta là sự sống lại và là sự sống?” hay sao? Không phải Chúa Giêsu muốn làm cho chúng ta sống mạnh mẽ ở bên ngoài những khó nhọc, những thảm kịch của chúng ta và thậm chí cái chết nữa. Ở tận thâm sâu sự tuyệt vọng mà Chúa Giêsu chịu đựng cùng với chúng ta, Ngài sẽ cho chúng ta một dấu hiệu hùng hồn về cuộc sống vinh quang. Ngài đứng dậy và nói lớn lên: “Hỡi Lagiarô, hãy đi ra!” Như mọi khi, đứng trước một dấu hiệu, phải thấy rõ rằng đó là một dấu hiệu, nghĩa là một lời mời gọi đi xa hơn nữa. Sự sống lại của Lagiarô là sự chiến thắng cái chết, nhưng là một sự chiến thắng tạm thời. Thế đã là nhiều rồi, một sự hy vọng điên rồ có thể nổi lên, cái chết không còn là phiến đá đè bẹp tất cả. Chúng ta đứng dậy để nghe mặc khải tối hậu vượt lên trên sự sống lại đơn giản: - Ta là sự phục sinh. Đây là một điều khác hẳn! Chúa Giêsu không sống lại như Lagiarô. Sự sống lại của Chúa Giêsu là sự chiến thắng hoàn toàn trên sự chết, bước vào cuộc sống “vĩnh cửu”, không chỉ theo nghĩa vô tận, mà còn có nghĩa là một cuộc sống khác. Cuộc sống này chắc chắn vẫn là của con người, tuy vậy với những tính chất và chiều kích khác biệt. Chúa Giêsu ban tặng cho chúng ta cuộc sống khác này. Ban tặng ngay tức khắc! Do đó mới có lời này: “Ta đến để chúng được sống”. Và tất cả điều khẳng định lạ lùng này được dùng ở thì hiện tại: “Ai nghe Ta thì được sống đời đời, người đó sẽ vượt qua cái chết mà đến sự sống” (5,24). Chúa Giêsu đã là “sự sống lại” cho Ngài và sẽ là “sự sống lại” cho chúng ta. Đây là lời tuyên xưng đức tin khó khăn nhưng chúng ta vẫn làm. Điều chúng ta ít hiểu đó là Chúa Giêsu là sự phục sinh như thế nào. Ngài là sự phục sinh bởi vì Ngài có thể thông truyền cuộc sống phục sinh của Ngài, cuộc sống “thuộc về sự sống lại” của Ngài cho chúng ta. Khi chúng ta uống nước ở nguồn mạch này, chúng ta bắt đầu hiện hữu như thể chúng ta sẽ hiện hữu đời đời, trong khi hiệp thông tình yêu với Thiên Chúa và với anh em. Đây không phải là những điều dễ nhận thấy được. Chúng ta tin rằng Mẹ Maria và các thánh đã trải qua một cuộc sống yêu đương trong sáng ở dưới thế này để đi đến sự viên mãn vĩnh cửu. Nhưng chúng ta, chúng ta có lẽ sẽ sống cho đến cuối đời một cuộc sống pha lẫn cái chết, bởi vì chúng ta không thông hiệp với cuộc sống của Chúa Kitô cho đủ. Tôi nhớ lại một nữ tu bị bệnh ung thư đã chăm chú nghe tôi nói về tác động hiện tại có thể có của sự sống lại. tôi nói với chị: mỗi lần sự can đảm và tình yêu chiến thắng tội lỗi di căn nơi chúng ta, thì chính sức mạnh của sự phục sinh của Chúa Kitô đã giành lấy con người phục sinh từ cái chết rồi vậy. 36. Niềm tin bừng sáng--Br Philip-Minh Khả, CRMTrong ký ức chúng ta có lẽ không quên biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Trung Tâm Mậu Dịch quốc tế tại New York năm vừa rồi. Hai tòa nhà cao 102 tầng đã sụp đổ sau hơn một tiếng đồng hồ bốc cháy bởi hai chiếc máy bay dân sự do đám khủng bố điều khiển đâm vào, mang theo vận mạng một lúc mấy ngàn người trong các tòa nhà đó. Cả nước Mỹ bàng hoàng và đau đớn trong biến cố này. Đứng trước biến cố này, trong sự bàng hoàng, thương tiếc, đau khổ và tuyệt vọng, niềm tin vào sự hiện diện và tình yêu của Thiên Chúa nơi nhiều người bị lung lay. Nhiều người đã phải thốt lên rằng Thiên Chúa đâu rồi? Tại sao Chúa không ngăn ngừa khỏi xảy ra sự dữ này? Câu hỏi tương tự ở trên cũng được thấy trong Tin mừng Gioan hôm nay. Martha và Maria trong cơn đau khổ mất em là Lazarô, gặp Chúa Giêsu, hai chị em vừa khóc, vừa trách Chúa rằng Chúa ơi, Chúa ở đâu khi em con đang bệnh; nếu Chúa ở đây thì em con đâu có chết. Đây có lẽ là tâm lý chung của con người khi gặp sự đau khổ. Trong đêm tối mịt mù của khổ đau, niềm tin nơi Thiên Chúa của chúng ta bị lung lay. Chúng ta cảm thấy hoài nghi sự hiện diện và tình yêu Thiên Chúa cho chúng ta. Tin mừng Gioan hôm nay cho chúng ta thấy trong Martha và Maria đang đau khổ, Chúa Giêsu đến bên cạnh họ. Thánh Gioan trình bày ở đây một Thiên Chúa không xa vời ở nơi đâu, nhưng rất gần gũi với con người. Chúa Giêsu mang đến cho họ niềm an ủi. Chúa Giêsu thông cảm nỗi đau khổ của họ. Trong tâm tình xót thương, Người mủi lòng và khóc thương. Và chính niềm tin vào Thiên Chúa nơi Martha và Maria bừng sáng lên khi họ cảm nhận Chúa Giêsu ở bên họ và đặt niềm tin tưởng, phó thác vào Người. Với niềm tin vào Thiên Chúa, chúng ta tin rằng trên vạn nẻo đường của cuộc sống mỗi người, bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu trong mọi biến cố vui buồn của cuộc sống, Thiên Chúa luôn có mặt để hướng dẫn và nâng đỡ chúng ta. Trong an vui hạnh phúc, trong thất bại khổ đau, trong hân hoan hay đau buồn, trong mạnh khỏe hay bệnh tật, Thiên Chúa luôn bên cạnh ta để mời gọi ta tin tưởng vào tình yêu của Ngài. Thật ra không phải con người đi tìm kiếm Thiên Chúa cho bằng chính Ngài luôn theo đuổi, kiếm tìm và ở bên cạnh con người như trường hợp của chị em Martha, Maria và Lazarô. Chúa Giêsu hằng luôn để ý tới họ và trong cơn đau khổ nhất khi Lazarô chết, Chúa Giêsu đã tìm đến bên cạnh họ để an ủi. Trong cuộc sống vật lộn với công ăn việc làm để tìm miếng cơm manh áo, với biết bao buồn vui xảy ra đến trong cuộc đời, với những cái chết vì bệnh ung thư hoặc bị tai nạn xe hơi hay vì một lý do không may nào xảy đến, chúng ta luôn luôn được mời gọi để nhìn lên trên các biến cố ấy trong tương quan với đời sống vĩnh cửu, với niềm tin tôn giáo. Đây là cách duy nhất để chúng ta nhận thức được ý nghĩa và giá trị đích thực của cuộc sống. Biến cố khủng bố ngày 11 tháng 9 tại Trung Tâm Mậu Dịch quốc tế là một sự dữ, là đêm tối đức tin cho nhiều người. Tuy nhiên, qua biến cố này, niềm tin được bừng sáng nơi nhiều người. Nhiều người nhận xét rằng, người ta cầu nguyện với Thiên Chúa nhiều hơn. Nhiều người xưa nay có thái độ bàng quan tới mọi người, nay tỏ thái độ yêu thương, chia sẻ. Niềm tin bừng sáng! Trong câu chuyện Lazarô sống lại, Martha và Maria trong đau khổ đã nhận được tình Chúa Giêsu và đặt niềm tin tưởng, phó thác vào Ngài. Niềm tin bừng sáng! Còn mỗi người chúng ta, cái nhìn, thái độ và niềm tin chúng ta thế nào đối với Thiên Chúa trong các biến cố xảy ra trong đời chúng ta? 37. Gieo mầm sự sống--Lm. Giuse Đỗ Đức TríTuần qua, trên báo có bài viết: “Đường đi của cái chết” nói về những đường dây ma túy từ Châu Phi và từ một số quốc gia đang đổ vào Việt Nam dưới rất nhiều hình thức. Một điều khó khăn cho những người có trách nhiệm đó là ma túy ngày nay rất đa dạng và rất mới, còn hành động của những kẻ gieo rắc cái chết trắng thì hết sức tinh vi và là một mạng lưới xuyên quốc gia. Những chất ma túy này hằng ngày đang gieo bao nhiêu sự chết chóc cho người Việt, gây nên một sự bạc nhược uể oải cho lớp trẻ, và ăn mòn tuổi trẻ của nhiều người. Bên cạnh những cái chết trắng còn có nhiều người đang gieo cái chết âm thầm cho người khác qua việc sản xuất thực phẩm không an toàn, hoặc gieo rắc những hình ảnh những lối hành xử giết chóc vào trong tâm hồn người khác qua phim ảnh bạo lực sách báo với lối sống thù hằn. Ở Việt Nam còn có cái chết mà các nơi khác rất ít có, đó là cái chết đường phố: những hung thần trên đường phố tại Việt Nam mỗi tháng cũng cướp đi sinh mạng của hàng ngàn người, mỗi năm hơn 10 ngàn người chết vì tai nạn giao thông, và cũng có từng đó người thương tật. Thưa quý OBACE, xã hội và thế giới quanh ta dường như càng ngày càng được bao trùm bởi sự chết chóc, lo âu và sợ hãi như thế, thì Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc. Đức Giêsu chính là Đấng đã sống lại từ cõi chết và đem đến sự sống cho nhân loại. Câu chuyện Chúa Giêsu cho anh Lazarô được sống lại hôm nay muốn nói lên điều đó. Cái chết là đau khổ tột cùng của con người, đau khổ cho cả người chết và người còn sống. Khi đối diện với cái chết con người lo âu sợ hãi, sợ hãi vì họ phải đối đầu với cái chết một mình, cảm thấy cô đơn không có ai đi cùng. Đối diện với cái chết người ta sợ hãi là vì người ta không biết bên kia cánh cửa sự chết điều gì sẽ xảy ra cho họ, và họ sẽ bị hủy diệt vĩnh viễn. Chính vì thế mà ai cũng muốn kéo dài sự sống. Bên cạnh đó cái chết còn để lại cho người sống một nỗi đau đớn mất mát vì phải vĩnh viễn chia tay với người thân yêu. Vì những lý do đó mà cái chết luôn là sự ám ảnh sợ hãi cho con người. Trong cái nhìn đó, chúng ta mới thấy hoàn cảnh đau thương của gia đình Matta và Maria, họ chỉ có ba chị em, mà giờ đây mất đi người em út. Đọc câu chuyện chúng ta thấy cái chết của Lazarô đã làm cho tinh thần của hai người chị xuống dốc trầm trọng và đức tin của họ bị chao đảo và thử thách nặng nề. Trước đây, họ vẫn đón tiếp Chúa Giêsu như một vị Thầy quyền năng, và chắc chắn đã nhiều lần hai cô cũng chứng kiến việc Chúa làm phép lạ cho kẻ chết sống lại, tuy nhiên lần này khi Lazarô bị bệnh nặng, báo tin cho Thầy Giêsu, thì Thầy đã không đến ngay, vì thế hai cô rơi vào thất vọng, nên khi Đức Giêsu vừa đến thì cô Matta đã trách Chúa trong tuyệt vọng: Nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết. Dù là trách Chúa, nhưng cô vẫn còn một chút hy vọng khi cô nói: Nhưng con biết bây giờ Thầy xin gì cùng Thiên Chúa, thì Người cũng sẽ ban cho Thầy. Chúa Giêsu đã không nỡ để cho hy vọng cuối cùng ở nơi cô bị vụt tắt nên Ngài đã nâng đỡ đức tin cho cô khi nói với cô: Em con sẽ sống lại. Tuy nhiên cô Matta vẫn chưa vượt qua được sự cản trở tự nhiên và sự suy nghĩ của con người, nên cô cũng chỉ nói lên niềm tin vào sự sống đời sau mà thôi, chứ cô không tin rằng Đức Giêsu có thể làm cho em cô sống lại ngay bây giờ, vì thế cô nói: Vâng con biết đến ngày tận thế thì em con sẽ sống lại. Chúa Giêsu đã muốn cho cô Matta đi một bước xa hơn trong niềm tin vào quyền năng Thiên Chúa ở nơi Ngài, tin Ngài có thể làm được tất cả, nên Ngài mới giải thích cho Matta: Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, ai sống mà tin vào Thầy thì không bao giờ phải chết. Giải thích điều đó, Chúa Giêsu muốn cô Matta tuyên xưng niềm tin của mình khi Ngài hỏi cô: Con có tin như thế không? Lúc này cô Matta đã vâng phục hoàn toàn không cần phải giải thích thêm, cô đã tuyên xưng: Thưa Thầy có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Với lời tuyên xưng này, cô Matta đã tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô, có nghĩa là Đấng được xức dầu, là Đấng Cứu Thế, và còn tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa, có nghĩa là tuyên xưng Đức Giêsu là chính Thiên Chúa, Đấng có quyền năng của một vị Thiên Chúa. Mặc dù hoàn toàn tin tưởng Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, nhưng cô Matta, chị của người chết vẫn cứ để cho sự chết ràng buộc mình, cho nên khi Chúa Giêsu ra lệnh cho mọi người khiêng tảng đá lấp cửa mộ ra, thì cô Matta đã can ngăn mọi người: Thưa Thầy, không thể được, vì đã bốn ngày rồi. Một lần nữa Đức Giêsu lại nâng đỡ đức tin cho cô Matta: Nếu chị tin, chị sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa. Bằng một mệnh lệnh: Lazarô hãy ra đây, người chết liền bước ra khỏi mồ, trên người còn quấn những khăn liệm. Chứng kiến phép lạ này nhiều người đã tin vào Đức Giêsu. Đức Giêsu chính là Thiên Chúa là Đấng ban sự sống cho nhân loại và vũ trụ, Ngài là Đấng đã mang lấy thân phận của con người đã chấp nhận cái chết và đã dùng quyền năng của Thiên Chúa mà chỗi dậy từ cõi chết để đem đến cho nhân loại sư sống, những ai tin Ngài và đón nhận Ngài thì đón nhận được sự sống Ngài ban tặng. Việc hồi sinh cho Lazarô là một minh chứng về quyền năng của Thiên Chúa, tuy nhiên Lazarô vẫn chỉ hồi sinh để sống lại cuộc sống cũ, còn những người tin vào Đức Giêsu, thì đón nhận được một sức sống mới hoàn toàn khác hẳn với cuộc sống cũ. Sức sống mới này là sức sống của Thần Khí của Thiên Chúa mà Đức Giêsu trao ban sau khi Người từ cõi chết sống lại. Thần Khí sự sống mà Đức Giêsu ban tặng đã được tiên tri Ezekiel nhắc đến khi tiên báo rằng: Thiên Chúa phán: Ta sẽ mở cửa mồ cho các ngươi, Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Thánh Phaolô đã hiểu điều này, đã tin và đã nói cho cộng đoàn Rôma rằng: Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, Ngài cũng sẽ dùng Thần Khí của Ngài mà làm cho thân xác anh em được sự sống mới. Thưa quý OBACE, chúng ta vẫn phải đối diện với cái chết về thể xác, nhưng đối với những người tin vào Đức Giêsu, thì cái chết không còn là nỗi sợ hãi kinh hoàng nữa, vì chúng ta tin vào lời Chúa hứa hôm nay: Ai tin vào Thầy thì dù có chết cũng sẽ được sống, và ai sống mà tin vào Thầy thì sẽ không phải chết nữa. Do đó với người Kitô hữu cái chết sẽ trở nên nhẹ nhàng, là ngưỡng cửa bước qua để chúng ta được vào hưởng sự sống đời đời với Thiên Chúa. Tuy nhiên chúng ta không chỉ mong đợi sự sống đời đời mai sau, nhưng ngay hôm nay, nhờ được dìm vào dòng nước rửa tội, cùng dìm vào cái chết của Đức Giêsu Kitô, thì ngay hôm nay, lúc này, chúng ta đang đón nhận được sự sống Ngài trao ban. Sự sống ấy chính là Thánh Thần của Thiên Chúa đang hiện diện và hoạt động trong chúng ta. Như thế, theo thánh Phaolô, chúng ta không thể để mình sống theo con người cũ, không thể để mình buông theo lối sống của xác thịt và của thế gian, nhưng phải để cho Thánh Thần chi phối và dẫn dắt, và chỉ những ai để cho Thánh Thần dẫn dắt thì mới thuộc về Đức Kitô. Mỗi người chúng ta đã được lãnh nhận sức sống của Thánh Thần trong ngày rửa tội và được tăng cường mạnh mẽ trong ngày lãnh Bí tích Thêm Sức, tuy nhiên, nhiều người đã bỏ quên sự hiện diện của Thánh Thần, đã để cho mầm sống mới của Đức Kitô bị thui chột bởi cuộc sống bê tha lười biếng. Một lần nữa lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tái khẳng định niềm tin vào Chúa Giêsu, để nhờ tin vào Ngài, chúng ta được lãnh nhận Thánh Thần là sự sống của Ngài, và được sống. Hãy đem sự sống của Đức Giêsu vào trong đời sống và trong gia đình của mình, hãy lắng nghe và vâng theo sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ soi dẫn chúng ta, giải gỡ những khó khăn trong cuộc sống, giúp chúng ta điều chỉnh lại nếp sống để cho gia đình mỗi ngày thêm hạnh phúc hơn. Hãy cùng nhau tuyên xưng niềm tin vào Đức Giêsu là Thiên Chúa quyền năng, và dám phó thác cuộc sống và gia đình cho Ngài, Ngài sẽ canh tân đổi mới cuộc sống gia đình chúng ta. Nhiều người ngày nay đang bị chôn vùi trong tội lỗi, trong cái tôi ích kỷ lười biếng và tự mãn của mình, nhiều người trẻ thì bị những dây băng là các thứ nghiện ngập đam mê trói buộc như games, internet, phim ảnh, sách báo xấu, ma túy, cờ bạc, cá độ,… khiến họ nằm lỳ trong tình trạng xa Chúa, nhiều bạn khác vì bị nhồi nhét bởi những tư tưởng vô thần, những phong trào chống phá bôi xấu Giáo Hội, nó như nấm mồ chôn chặt cuộc sống và suy nghĩ của họ. Hãy tin tưởng vào quyền năng của Đức Giêsu để lăn tảng đá xấu xa đó ra khỏi cuộc đời, hãy giúp nhiều bạn trẻ tháo cởi khỏi những sợi dây băng chết chóc ràng buộc đó, để giúp họ có thể đến với Đức Giêsu và đón nhận được Thần Khí sự sống của Ngài. Amen. 38. Chôn cất--Lm Vũ Đình TườngKhông phải hễ có chết là có an táng cả đâu. Rất nhiều trường hợp hết đời âm thầm, tàn lụi không an táng. Không ai an táng một tư tưởng ngay cả có thời nó được coi là vĩ đại. Không ai an táng một mối tình đứt quãng giữa đường. Chẳng ai an táng cái chết của một niềm tin, dù là niềm tin vào Đức Kitô. Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô ban nguồn sống mới cho các tông đồ và tăng thêm niềm tin cho những người từng quen biết Lazarô. Chính những người này thắc mắc vào quyền năng Thiên Chúa. Họ hỏi nhau ông Jêsu có thể mở mắt cho người mù mà không thể cứu sống được bạn mình sao. (c,38) Đức Kitô nhắc cho chị em Maria và Martha biết về quyền năng của Thiên Chúa khi Ngài phán bảo các cô Ngài là Thiên Chúa của sự sống. Mary và Martha tin vào quyền năng của Thiên Chúa vượt lên khỏi sự chết, đau khổ và bệnh tật và các cô, dù không hiểu hay hiểu rất mù mờ vẫn đặt trọn niềm tin vào Đức Kitô. Tin vào Đức Kitô không đòi hỏi chúng ta hiểu một cách cặn kẽ. Có lẽ điều cốt yếu cần học hỏi để tin nhiều hơn là học biết tình yêu Chúa dành cho con người cao xa, vượt khỏi tầm hiểu biết của ta. Ban sự sống lại cho Lazarô Đức Kitô mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa. Mặc khải sức mạnh tình yêu Chúa chính là làm sáng Danh Chúa. Đức Kitô cho biết sức mạnh tình yêu Chúa lớn hơn sự chết và Danh Chúa cả sáng biểu lộ qua tình thương bao la Ngài dành cho nhân loại. Đức Kitô đánh bại sự chết cho thấy ngay cả ‘thần chết’ cũng phải quy phục Ngài. Chết là chặng đường ta đi qua trước khi bước vào ngưỡng cửa Phục Sinh vinh quang. Mary và Martha tin vào quyền năng Chúa nhưng vẫn mù mờ thắc mắc tại sao Thiên Chúa chậm chạp trong việc đáp lại lời ta cầu xin. Cả hai cô, dù không bàn với nhau trước nói với Đức Kitô cùng một câu. Nếu Thầy đến sớm thì em con sẽ không chết (c.21, 32) Thiên Chúa có chương trình riêng của Ngài, không phải chương trình của ta. Khi nào Ngài đáp lời ta cầu xin là do Ngài chọn lựa thời gian, địa điểm. Việc chọn lựa này đặt căn bản trong việc thực hiện í Chúa Cha như Ngài từng phán Ta đến không phải để làm theo í Ta mà là làm theo í của Chúa Cha. Khi nào thỉ đến giờ Ngài thực hiện điều ta xin là quyền của riêng Ngài. Tiệc cưới Cana chứng tỏ điều đó khi Đức trinh nữ xin Ngài giúp gia chủ vì giữa tiệc hết rượu. Ngài đáp: Giờ Ta chưa đến. Hai chị em Mary and Martha tin tưởng Đức Kitô sẽ cho Lazarô sống lại và ngày đó sẽ xảy ra trong ngày sau hết. Ngày sau hết khi nào chỉ mình Thiên Chúa định đoạt. Chúng ta cũng không quên Thiên Chúa làm chủ sự sống và Ngài làm chủ cả thời gian. Đối với chúng ta có sớm, có muộn vì chúng ta ảnh hưởng bởi thời gian. Thiên Chúa không ảnh hưởng bởi thời gian nên không có sớm, cũng không có muộn, cũng không có tương lai. Đối với Ngài thời gian luôn là hiện tại. Liên kết với Đức Kitô để được luôn sống trong hiện tại và ơn Phục Sinh thuộc về Ngài. Hành trình đi từ cõi chết đến sự sống là hành trình mỗi người chúng ta đều trải qua. Chết về phần thân xác để sống vinh quang phần tâm linh. Hành trình này gây đau khổ, xót thương như hai chị em Maria và Martha đã trải qua trước khi đón nhận sự sống mới của Lazarô. với đức tin vào Đức Kitô chúng ta tin rằng chết thân xác chỉ là biến đổi từ xác phàm trước khi mặc lấy thân xác vinh hiển. Chết thân xác chỉ là tạm bợ vì tình yêu Chúa cao vời vĩ đại hơn tội lỗi con người. 39. Từng bước--Lm Vũ Đình TườngBa tuần qua chúng ta nghe nhiều về sự sống trường sinh. Đầu tiên là chuyện Đức Kitô đối thoại với người phụ nữ thành Samari tại bờ giếng. Nơi đó Đức Kitô xin chị nước uống. Với lòng thành chị nhận ra Ngài là Đấng ban nước hằng sống và chị đã nhận được nước trường sinh. Tuần qua lại nghe chuyện Đức Kitô mở mắt người mù từ lúc mới sinh. Mắt thể xác anh được sáng và mắt đức tin của anh còn sáng hơn. Nhờ mắt đức tin mà anh nhận biết Đức Kitô là Con Thiên Chúa, Đấng Cứu Độ trần gian. Tuần này chúng ta nghe về việc Đức Kitô làm cho Lazarô sống lại từ cõi chết. Bằng nhiều dụ ngôn khác nhau Đức Kitô dẫn chúng ta đi từng bước, giải thích về tình yêu Thiên Chúa và sự sống đời sau - Ban nước trường sinh cho người phụ nữ thành Samari- mở mắt cho người mù từ lúc mới sinh và ban sự sống cho Lazaro là chuẩn bị cho chúng ta hiểu về sự chết và Phục Sinh của chính Ngài. Các dụ ngôn trên cho thấy tình yêu Thiên Chúa mạnh hơn sự chết. Vì yêu mà Đức Kitô hiến thân ban sự sống cho nhân loại. Hiến mạng Đức Kitô từ bỏ vùng đang rao giảng để thực hiện điều rao giảng. Đây là chuyến đi định mệnh. Đức Kitô chết để ta được sống. Nguyên nhân Đức Kitô chết vì Ngài yêu thương. Thí mạng sống vì đàn chiên. Con người muốn Ngài chết vì danh Ngài vang dội. Phúc Âm ghi lại án tử bằng câu. Từ ngày đó họ quyết định giết Đức Kitô (Ga 11,53) Thì ra người ta giết nhau, thanh trừng nhau vì ghen. Sợ danh người khác lấn át danh mình. Muốn hơn tiếng phải thanh trừng, khai trừ. Án tử cho Đức Kitô đã định sẵn. Không còn phải thắc mắc. Nếu có chỉ là thời gian, tìm dịp thuận tiện để thi hành. Đức Kitô chết vì thực hiện điều rao giảng: bác ái, yêu thương, thứ tha. Vì bác ái bị người thù. Vì yêu người bị người ghét. Vì tha thứ bị người khai trừ. Vì sao? Vì nhân đức nghịch với khuynh hướng, lối sống và cách xử thế thế gian nên thế gian ghét những gì không thuộc về chúng. Bác ái, yêu thương, tha thứ thành trò cười cho thiên hạ chế diễu. Thể hiện qua lời móc méo của kẻ trộm và viên trưởng lãnh binh. Trước khi xỏ lưỡi đòng thâu tim, họ đã xiên lưỡi đòng tâm lí. Hắn cứu được người khác mà không cứu được mình. (Lc 23,35) Thiên Chúa không đáp lại lời châm biếm nhưng biến lời chế diễu thành lời rao giảng, tuyên xưng. Lời xỏ xiên kia xác nhận Đức Kitô ban sự sống cho người khác. Tự thú Ngài không sống cho chính Ngài nhưng sống cho tha nhân và phó mình làm giá chuộc muôn dân. Từ khởi nguyên ý định xuống thế cứu chuộc không hề lay chuyển. Ngài xuống trần gian không phải để làm theo ý riêng nhưng làm theo ý Chúa Cha. Mà ý Chúa Cha là muốn mọi người nhận ơn cứu rỗi. Đức Kitô thể hiện ý Chúa Cha, hoàn tất một cách trọn vẹn. Lời cuối trên thập tự thể hiện điều này: Mọi sự đã hoàn tất – Nói xong, Ngài tắt thở. Bạn của Thiên Chúa Mở đầu bằng hứa ban nước trường sinh cho người phụ nữ Samari tại bờ giếng. Một người dân ngoại. Đức Kitô còn kể dụ ngôn người dân ngoại thành Samarita nhân lành, cứu người bị nạn dọc đường, đưa vào quán trọ nhờ săn sóc (Lc 10,25-37). Câu hỏi đặt ra cho mỗi người chúng ta người dân ngoại nhân lành đó là ai? Là chính Đức Kitô và mỗi người trong chúng ta? Đối với lãnh binh đền thờ và thượng tế Đức Kitô là dân ngoại. Tệ hơn nữa còn bị quỉ ám. Chúng tôi bảo ông là người Samari và là người bị quỉ ám thì chẳng đúng lắm sao (Ga 8,48) Vì mở mắt sáng cho người mù từ lúc mới sinh mà họ kết án Ngài Chúng ta biết ông ấy là người tội lỗi (Ga 9,24) Vì ban sự sống cho bạn thân là Lazarô nên họ chủ trương giết Ngài. Ai là bạn hữu của Ngài? Câu trả lời thật rõ Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dậy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu (Ga 15,14) Để trở thành bạn Đức Kitô người đó cần nhận tội, sống yêu thương, tha thứ và thực thi đức ái. Khiêm nhường thú nhận tội lỗi, sống bác ái, yêu thương biến chúng ta thành bạn hữu Đức Kitô.Tình bạn không dành cho riêng ai mà trải dài, vươn rộng cho tất cả những ai tin vào Ngài Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết (Ga 11,26) Tin vào Đức Kitô sẽ nghiệm thấy chết thể lý là biến đổi để bước vào sự sống trường sinh. Sự sống đó không cần phải đợi đến ngày kẻ chết sống lại mà khởi đầu ngay khi hồn lìa khỏi xác. Đây chính là ý nghĩa câu ‘sẽ không bao giờ phải chết’. Hồn lìa khỏi xác để đoàn tụ cùng Chúa, thể hiện điều Đức Kitô ước mong trong lời nguyện hiến tế Lạy Cha, Con muốn rằng Con ở đâu thì những người Cha đã ban cho Con cũng ở đó với Con (Ga 17,24) Chúng ta cầu xin sống tinh thần khiêm nhường, thú tội, nhận biết, tin theo Đức Kitô. Sống theo lời Chúa dậy, đầy nhân hậu, giầu bác ái, nhiều tình thương, chậm bất bình và hay tha thứ. 40. Chết?--Lm Vũ Xuân HạnhLà người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu. Và Chúa đã thật sự xót thương, thật sự rung động trước cái chết của chàng trai Lazarô, bạn của Chúa. Thế nhưng điều mà Tin Mừng muốn nói không dừng lại ở việc Chúa xúc động. Vượt trên cái chết rất đỗi bình thường của Lazarô, là sự khẳng định quá sức phi thường của Chúa Giêsu: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ". Nhưng lời khẳng định của Chúa có xác đáng không, khi mà thực tế, chết là đau xót, là chia cắt? Chứng kiến cái chết của người thân nhiều khi làm lòng ta se thắt lại. Ta muốn làm một cái gì đó để cứu giúp họ nhưng hoàn toàn bó tay. Thử hỏi lời Chúa Giêsu: "Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ" có là lời chân thật? Nếu đó là lời xác đáng, thì sự sống mà Chúa Giêsu nói là sự sống nào mà lại "không chết bao giờ"? Trong một một bài viết mang tên Cõi đi về, mở đầu cho những lời ngậm ngùi tiếc xót một Chủng sinh đã an giấc, linh mục Giuse Nguyễn Hữu An không giấu nổi niềm đau của mình: "Mọi đám tang đều gieo vào lòng tôi một nỗi buồn tê tái". Nhất là nhìn cảnh Thầy - "một thanh niên đang tuổi xuân ra đi mà mẹ già mắt mờ, lưng còng, tóc bạc đưa tiễn", thì "chỉ có đau thương, chỉ có buồn sầu và tiếng khóc, chỉ có nghẹn ngào và nước mắt" là đúng lắm. Chết là một mất mát. Lứa tuổi cao niên, chết vẫn thấy đời người dang dở, lứa tuổi xuân thì còn dang dở biết bao nhiêu! Cái chết của Lazarô, người bạn của Chúa Giêsu, người được gọi là "người Thầy yêu", không chỉ làm cho hai chị của mình và những người quen biết khóc thương, mà còn làm cho Chúa Giêsu, dù biết rằng sẽ cho anh sống lại, cũng đã "thổn thức và xúc động". Điều đó càng làm nổi bật cái bi, cái khổ của nỗi chết. Nếu chỉ suy nghĩ như thế thôi, lời của Chúa Giêsu: "Ai tin Ta...", đúng là không xác đáng. Nhưng không đúng! Lời ấy phải được suy niệm bằng đức tin, vì là lời của ĐỨC TIN. Chúa không hề bảo rằng: "Ai suy nghĩ về Ta...", mà lại nói rằng: "Ai tin Ta...". Vì thế đọc Lời Chúa, bạn và tôi đừng dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ mà hãy tiến xa hơn đến chỗ suy niệm. Vì điều quan trọng không nằm ở chỗ biết suy nghĩ, nhưng quan trọng là suy nghĩ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, lời của Chúa Giêsu không những là lời xác đáng mà còn là lời ban niềm hy vọng. Một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống phía sau cái chết, một sự sống "không chết bao giờ". Không ai sinh ra là để sống ở trần gian đời đời cả, nhưng sinh ra để rồi chết. Nếu không có đức tin, không mảy may biết một chút gì đến sự sống đời sau, thì rõ ràng, cuộc đời là bi đát. Vì sao lại bi đát? Là vì cuộc sống trần gian giống như một chuyến đi. Ở cuối hành trình của cuộc đời mỗi người không phải danh vọng, địa vị, hưởng thụ, giàu sang, tiền rừng, bạc bể..., mà là cái chết. Chấm dứt tất cả. Giết chết tất cả. Bị cướp mất tất cả. Trong cái chết, có lẽ con người ta cô đơn nhất. Dẫu có hai người sát cạnh nhau cùng chết, cũng khó có thể nói rằng: chết cùng, chết với. Mỗi người là một cái chết, rất tư riêng, không bao giờ hòa trộn, không bao giờ lẫn lộn. Trong cái chết, con người ta trở thành nghèo nhất: bỏ lại tất cả, chỉ có hai bàn tay trắng. Điều còn lại chỉ là một cái xác không hồn. Nhưng cái xác không hồn này rồi cũng phải bị vùi dập, hay thiêu đốt lập tức, vì nó sẽ thối rữa đến đến tan nát, đến mất mát, đến không còn gì. Rõ ràng bi đát, rất bi đát... Nhưng người Kitô hữu có đức tin. Họ xác tín mạnh mẽ vào Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ đến cùng kiếp sống con người của họ. Người đã chết thật, nhưng đã đi bước trước để dạy họ bài học của sự sống đàng sau cái chết: đó là chính Chúa đã sống lại thật. Sự sống đàng sau cái chết mới là sống thật, sống vĩnh cửu. Một sự sống không có sự chết. Đấng Phục Sinh ấy, hôm nay, trong Tin Mừng, đã nói một cách tường tận, thẳng thắn với Martha, cũng là nói với bạn và tôi: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ". Tin vào Đấng tự mình phục sinh và hứa ban ơn phục sinh cho những ai tin, người Kitô hữu cảm nhận bình an trong cuộc sống. Đức tin giúp họ hiểu rằng, cái chết chỉ là một sự biến đổi để trở về cùng Thiên Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời. Những cố gắng xây dựng cuộc đời sẽ cho ta hạnh phúc tương lai. Nếu hiểu như thế, cuộc đời không bi đát, nhưng đáng yêu. Bạn và tôi có quyền hy vọng điều mà Chúa đã hứa: "Ai tin Ta sẽ không chết đời đời"!! Đức tin là chìa khóa mở cửa cho niềm hy vọng của chúng ta. 41. Chúa Nhật 5 Mùa Chay-- Lm Gioan Phan Tiến Dũng(Chia sẻ lương thực Lời Chúa cho những ai không thể tham dự Thánh Lễ trực tiếp) Đứng trước Đại Dịch Covid-19, biết bao nhiêu người bị lây nhiễm, bị bệnh và qua đời; con người trong xã hội ngày nay, đã và đang làm gì trước thảm họa đau thương này. Các nhà chức trách, các đội ngũ y bác sỹ và tất cả mọi người đã và đang tích cực chung tay cộng tác, hầu để tìm mọi cách tốt nhất có thể giúp đỡ anh chị em đồng loại của mình. Thế nhưng, chúng ta thấy, sức của con người thật có những giới hạn khi đối diện với đại thảm họa này. Trong hoàn cảnh này, Bài tin mừng của Chúa Nhật thứ 5 Mùa Chay hôm nay giúp và soi sáng cho chúng ta. Tin mừng thuật lại câu chuyện phép lạ của Chúa Giêsu trước cái chết của Lazarô; Chúng ta biết rằng theo tường thuật của Gioan, phép lạ cho Lazarô sống lại từ cỏi chết là phép lạ cuối cùng của Chúa Giêsu làm, trước khi Ngài đi vào cuộc thương khó của chính mình. Như vậy, chắc chắn Chúa Giêsu cũng ý thức được về chính cuộc tử nạn và cái chết của mình sắp xảy ra. Khi đối diện với người bạn thân Lazarô đã chết, Chúa Giêsu đã làm gi? Thực ra, Chúa Giêsu đã biết tin khi Lazaro sắp chết. Theo cách của con người, đáng lẽ với người bạn thân Lazarô, Chúa phải thật vội vàng để chạy đến Bêtania, để thăm hay cứu chữa Lazarô, hay ít ra cũng để gặp người bạn lần cuối. Nhưng không, tin mừng thuật lại, “khi biết tin, Chúa vẫn chưa đến ngay”. Có phải Ngài muốn trì hoãn, chần chừ, hay không quan tâm? Không phải vậy, Chúa Giêsu biết rõ và rất ý thức về cái chết sắp xãy ra cho Lazarô, và Chúa Giêsu đã muốn để xãy ra và cho Thánh ý Thiên Chúa được thể hiện, và cho Thánh ý của Chúa Cha được tôn vinh. Đây chính là điều cốt lõi, là vẽ đẹp trong cuộc đời, sứ vụ và hành động của Chúa Giêsu. Khi đến trước ngôi mộ của Lazarô, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha, Ngài đã cầu nguyện với cả tâm hồn và nước mắt. Ngài cầu nguyện với niềm tín thác hoàn toàn vào Chúa Cha. Và sau khi đã cầu nguyện cách mật thiết với Chúa Cha, Ngài đã gọi: “Lazaro hãy ra đây”, Lazarô đã được sống lại, và bước ra từ nấm mồ của kẻ đã chết. Một đểm thú vị khác, chúng ta nhận ra được thánh ý của Thiên Chúa nơi cuộc trò chuyện của Chúa Giêsu với Matta. Khi đến gặp Matta, và biết rằng Lazaro đã chết, Chúa Giêsu hẵn biết Ngài phải làm điều gì. Nên Ngài đã hỏi Matta, con có tin là em con sẽ sống lại? Dù Matta tin, nhưng Matta vẫn ngăn cản Chúa khi Ngài muốn cho Lazaro sống lại. Tại sao Matta lại ngăn cản Chúa? vì Lazarô đã chết, đã an táng được bốn ngày, và đã nặng mùi. Có thể với Matta, khi để cho Chúa Giêsu tiếp xúc với người chết như vậy thì không tốt cho Chúa Giêsu. Thế nhưng, khi Chúa Giêsu mời gọi Matta, con hãy tin. Và với lời mời gọi đó của Chúa Giêsu, Matta đã tuyên xưng: “con tin rằng em con ngày sau sẽ sống lại”. Và qua đó, Chúa Giêsu đã công bố: Ta là sự sống lại và là sự sống, cho dù người nào chết mà tin Ta thì cũng sẽ được sống. Ở đây, Khi Chúa Giêsu đề cập đến “người nào chết”, chết ở đây có hai ý nghĩa, cả cái chết về phần thể lý, và cái chết về Đức tin. Thật vậy, nếu tin vào Chúa Giêsu, con Thiên Chúa, bằng cách quay trở lại và sống thân mật với Chúa, thì tình thương và lòng thương xót Chúa sẽ làm cho chúng ta sống lại và sống lại thật. Thưa anh chị em, điều quan trọng là, liệu chúng ta có tin vào Chúa, muốn quay trở về, sống kết hiệp và gắn bó cuộc đời của chúng ta cách mật thiết với Chúa không? Đứng trước những khó khăn và thách đố hôm nay, với căn bệnh dịch, với bất an, đau khổ và cái chết, và khi mà nhiều tín hữu không thể tham dự bàn tiệc Thánh Thể cách trực tiếp… chúng ta đang được mời gọi “hãy vững tin”, tin vào Chúa và lòng thương xót của Ngài. Thánh vịnh 128 vọng lên: “Chúa luôn từ ái một niềm, ơn cứu chộc nơi Ngài chan chứa”. Chúng ta hãy vững tin, nếu lúc này chúng ta loại Chúa ra khỏi cuộc sống và tâm trí chúng ta, chúng ta sẽ thất vọng, cô đơn và và sẽ “chết” (với cái nghĩa đức tin và ngay cả thể lý). Đồng thời, khi tin vào Chúa, tuyên xưng niềm tin vào Ngài, chúng ta cũng được mời gọi như Chúa Giêsu, hãy làm gì đó cho những anh chị em đang đau khổ của chúng ta. Trong những lúc khó khăn như thế này, việc cầu nguyện tại tư gia, đọc và suy niệm Lời Chúa, làm và chia sẻ những việc bác ái yêu thương, và ngay cả giữ gìn sức khỏe của bản thân cũng là những cách thế mà chúng ta cùng hành động với Chúa Giêsu cho người mà mình yêu thương. Hãy làm mọi việc vì lòng yêu mến, hãy làm mọi việc vì lòng tin, và hãy làm mọi việc để làm sáng danh và tôn vinh Thiên Chúa. Amen. 42. Chính Ta Là Sự Sống Lại--Lm. Antôn Hà Văn MinhTin Mừng Ga 11: 1-45 Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận làm người. Đối diện với cái chết của Lazarô Chúa Giêsu thổn thức. Quả thật, xuống thế làm ngừoi, Chúa Giêsu đã chia sẻ trọn vẹn thân phận làm người. Thánh Phaolô đã minh định: Chúa Giêsu giống như chúng ta hoàn toàn ngoại trư tội lỗi (x. Pl 2,70), bởi đó những giọt nước mắt Chúa đổ ra do bởi một tình yêu trong mối tương giao bằng hữu với Lazarô. Đó cũng là những giọt nước mắt tỏ bày sự bất lực trước cái chết của thân phận làm người. Những giọt nước mắt Chúa đổ ra nói lên sự đồng cảm của Chúa với con người trước sự bất lực này. Tuy nhiên sứ vụ của Chúa không dừng lại ở việc đồng cảm với thân phận hèn yếu của con người, nhưng còn phải làm cho con người vượt qua sự bất lực của mình để đạt tới sự sống, và không còn phải chứng kiến nỗi đau do sự chết gây nên. Cách thế để con ngừoi đạt tới sự sống chính là tin vào Chúa Giêsu, Đấng là sự sống, được Thiên Chúa Cha sai đến trần gian để ban lại sự sống cho con người. Chính Đức Kitô đã minh định: Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Ta, sẽ không bao giờ phải chết. Tin vào Đức Kitô để được sống là một hành vi xác tin rằng, Người chính là nguồn mạch sự sống, và đức tin không là một lời nói suông, nhưng là một cuộc gặp gỡ sống động và cá vi giữa Đức Kitô và người tin. Chính trong cuộc gặp gỡ nầy chúng ta khám phá ra rằng, Đức Kitô không là một con người phi thường, một dị nhân nhưng Người là Đấng được thiên Chúa sai đến trần gian. Một sự nhận biết mang một tầm vóc quan trọng để có thể xác tín rằng: nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết. Sự xác tín như thế nhằm minh định rằng, chính Chúa Kitô không những là nguồn sống mà Người còn làm chủ lấy sự sống, điều đó cũng nhằm nói lên sống hay chết không thuộc về thế gian, nhưng thuộc thẩm quyền của Thiên Chúa. Quả thật thế gian không thể trao ban sự sống, vì ở nơi đó không có suối nguồn yêu thương. Thế gian chất chứa nguyên nhân đưa tới sự chết như sự thù hận ganh tương, lòng tham lam, tính ích kỷ, lòng mê đắm sự tà dâm, sự gian dối, tính kiêu ngạo… Ở thế gian này hết sự dữ này đến sự dữ khác tiếp nối lôi kéo con người đến với sự huỷ diệt, chẳng hạn từ nỗi lo về cuộc sống trong một môi trường sinh thái đang bị huỷ hoại vì nạn ô nhiễm mối trường, đến lo lắng về nạn thực phẩm nhiễm độc không an toàn, nay xã hội lại đối diện vói sự bất an về nạn ấu dâm, các trẻ em không còn được an toàn khi vắng bóng cha mẹ…. Sự sống chỉ đến từ Thiên Chúa, bởi Ngài là Đấng yêu thương, và Đức Kitô xuất hiện trên trần gian là để trao ban sự sống này. Người đã đến với trọn vẹn lòng thương xót của Thiên Chúa. Người hiện diện để chữa lành, để cứu vớt, mọi hành vi, lời nói của Người đều chất ngất tình yêu thương và từ đó tuôn trào sự sống bất diệt. Nhưng không phải ai cũng nhận ra điều đó, chỉ có những người thường xuyên đón rước Chúa, thường xuyên gặp gỡ và đối thoại với Chúa mới có thể khám phá nguồn sống nơi Người. Lạy Chúa, cuộc đời chúng con đối diện với bao thách đố, bao hiểm nguy, nhưng như cô Matta chúng con dám thân thưa: Lạt Thầy có Thầy ở đây chúng con không sợ gì, bởi chính Chúa là nguồn ơn cứu độ của chúng con. Amen. 43. Ngài là Sự Sống--Đinh Ngọc ThiệuCác bài đọc hôm nay đều nói đến sự chết và sự sống như để dọn lòng chúng ta bước vào mầu nhiệm trung tâm của đạo Chúa: mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Đức Kitô. Với bài đọc 1, ngôn sứ Ê-dê-ki-en cho chúng ta hình ảnh một nghĩa trang đầy xương khô và trơ trọi ám chỉ dân Chúa (nhà Ít-ra-en) trong tình trạng lưu đày ở Ba-bi-lon. Trong thị kiến, ông thấy những xương đó ráp lại với nhau thành những bộ xương: thêm gân, thêm thịt, phủ da rồi Thần Khí Chúa thổi sinh khí vào. Lập tữc, các tử thi được hồi sinh, chỗi dậy thành một đạo quân lớn tiến về đất hứa. Trong thơ gửi tín hữu Rôma, thánh Phaolô đã dạy: "Chính Thần Khí Chúa ngự trong anh em,...sẽ làm cho thân xác anh em được sự sống mới." Còn trong bài Tin Mừng Thánh Gio-an hôm nay, Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại. Điều đó khiến cho Mácta, Maria và số đông dân chúng chứng kiến hết sức vui mừng và niềm tin của họ dược củng cố thêm. 1. Đức Giêsu đã giải phóng chúng ta khỏi ách tử thần như thế nào? "Bởi phép Đức Chúa Thánh Thần, Người đã nhập thể trong lòng Trinh Nữ Maria và đã Làm Người". Lời kinh trên đã giới thiệu cho chúng ta bước khởi đầu kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa được thực hiện nơi Đức Giêsu, Ngôi Hai Thiên Chúa. Ngài đến trần gian để giải phóng chúng ta khỏi khổ đau, khỏi sự chết, hậu quả của tội nguyên tổ và ban cho chúng ta phúc trường sinh, phúc làm con Thiên Chúa. Ngài đã giải phóng chúng ta bằng cách nào? Ngài đã giải phóng chúng ta bằng trọn cuộc đời của Ngài nơi dương thế: - Bằng đời sống khó nghèo, khiêm nhường: Ngài chấp nhận cảnh đời thấp hèn nhất trong xã hội: sinh ra nơi hang đá máng cỏ, ba mươi năm ở Na-da-rét, trong xóm lao động, sống bằng nghề thợ mộc, một nghề rất tầm thường trong xã hội Do-thái lúc bấy giờ. - Bằng lời nói: Ba năm cuối đời, Ngài đã đi giảng dạy khắp miền đât Do-thái, loan báo Tin Mừng cho mọi người như lời ngôn sứ Isaia đã báo trước: "Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho người nghèo hèn. Người đã sai tôi đi công bố cho kẻ giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Chúa" (Lc 4, 18 - 19). - Bằng hành động: Với trái tim nhân hậu, Ngài đã xoa dịu những tâm hồn khổ đau, cứu giúp kẻ đói nghèo, chữa lành những ai bệnh tật... và trong bài Tin Mừng hôm nay, Ngài đã đến nhà Mácta và Maria vào lúc Ladarô, em trai hai bà mới mất, "Đức Giêsu đã thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các ngươi đã dể xác anh ấy ở đâu?" Họ trả lời: "Thưa Thầy, mời Thầy đến mà xem." Đức Giêsu liền khóc. Tới mộ, Ngài đã kêu người ta đem phiến đá đi và sau khi cầu nguyện, Ngài đã truyền cho Ladarô ra khỏi mồ: Người chết liền ra, chân tay còn đang cuốn vải và mặt còn phủ khăn. - Bằng chính bản thân: Đức Giêsu đã tự hiến mình chịu chết trên thâp giá đền thay tội lỗi nhân loại và đã sống lại. Đây là tột đỉnh của kế đồ cứu rỗi Klà dấu ấn tình thương bao la của Thiên Chúa: "Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình" (Ga 15, 13). Ngài đã chiến thắng sự chết và khải hoàn trong vinh quang. Từ đây, cây thập tự, dấu hiệu của sự chết, trở nên mối giao hoà đất trời và là chìa khoá mở cho chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu. 2. Những bài học: Các bài đọc hôm nay cho chúng ta những nét chính trong kế đồ cứu rỗi của Thiên Chúa: Kế đồ này do Đức Chúa Cha khởi xướng, Đức Chúa Con thực hiện và Đức Chúa Thánh Thần ứng dụng cho nhân loại. Cánh riêng bài Tin Mừng Thánh Gio-an cho chúng ta những kinh nghiệm quí báu về Đức Tin: Như Mácta và Maria đã mời Đức Giêsu đến chữa cho em mình, chúng ta cũng cần chạy đến với Chúa mỗi khi gặp những hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống, quyết không tìm đến với những hình thức bói toán mê tín dị đoan. Theo suy nghĩ thường tình, người ta dễ gán cho những ai gặp tai họa hoặc những bệnh tật hiểm nghèo là do chính lỗi của những người đó: "ác giả ác báo" hay "bị Chúa phạt" (theo lối nói của người Công giáo). Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu cho chúng ta một cái nhìn mới đúng đắn hơn về cơn bệnh và cái chết của Ladarô: "Bệnh này không đến nỗi phải chết, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang Thiên Chúa." Gặp Mácta trong tình trạng Ladarô đã chết và được chôn cất xong xuôi, Đức Giêsu đã phải cố giải thích để bà có thể nhận ra rằng: không cần phải đợi đến ngày sau hết Ladarô mới sống lại, nhưng là ngay bây giờ nếu bà tin vào Ngài, vì chính NGÀI LÀ SỰ SỐNG LẠI và LÀ SỰ SỐNG. Lạy Cha từ ái, chúng con tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Ngôi Hai Con Một yêu dấu của Cha làm giá cứu chuộc đền bù tội lỗi chúng con. Chúng con cũng tạ ơn Cha đã ban cho chúng con Chúa Thánh Thần, Đấng hằng hoạt động để thánh hoá giúp chúng con trở nên những người con tốt lành của Cha. Xin Cha cho chúng con, khi tham dự vào mầu nhiệm Thương Khó và Phục Sinh của Con Cha, có một lòng sám hối chân thành, sẵn sàng cùng chết với Đức Kitô để cùng được sống lại với Ngài trong vinh quang của Cha. Amen. 44. Để phép lạ xảy ra--Văn Chính, SDB chuyển ngữ“Ai tin vào Thày, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 1-45) Trong số những phép lạ Đức Giê-su đã thực hiện, việc làm cho anh La-da-rô sống lại gây ngạc nhiên nhất cho những người sống trong thời đại của Ngài. Truyền Thống Do Thái tin rằng linh hồn của người chết dù sao vẫn còn ở lại nơi thân xác đó 3 ngày. Sau 3 ngày, linh hồn vĩnh viễn rời bỏ thân xác và không bao giờ trở lại nữa. Kể từ lúc đó, thân xác mới bắt đầu bị phân hủy. Tin mừng Gioan thuật lại việc Đức Giê-su đến trước ngôi mộ của La-da-rô và truyền lệnh: “Đem phiến đá này đi!”. Phiến đá lấp cửa mộ của La-da-rô phải được mang đi theo lệnh của Đức Giê-su. Thế nhưng Mát-ta phản đối việc mở mồ của La-da-rô, chị nói: “Thưa Thày, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày” (Ga 11,39). Rõ ràng Mát-ta muốn nói lên một quan niệm chung của thời đó rằng trường hợp này thì thật vô vọng. Tại sao Đức Giê-su lại trì hoãn việc đến cứu giúp La-da-rô, khiến cho việc cứu chữa La-da-rô trở nên vô vọng như thế? G.K đã giải thích: “Hy vọng có nghĩa là vẫn còn mong đợi những điều xem ra vô vọng, hay chẳng còn chút khả thể nào”. Trong truyền thống Do thái, quan niệm một người chết trỗi dậy sau khi đã chết dược 4 ngày rồi, và khi thân xác đang trong tiến trình phân hủy, thì là chuyện không thể tưởng tượng được, như thị kiến của Ê-dê-ki-en về những bộ xương khô của những kẻ đã chết. Những bộ xương khô đét này chỉ có thể trỗi dậy nhờ vào phép lạ mà thôi. Đối với các Ki-tô hữu thời Giáo Hội sơ khai, câu chuyện làm cho La-da-rô sống lại muốn ám chỉ tới sự phục sinh của Đức Giê-su. Đức Giê-su trỗi dậy vào ngày thứ ba, và thân xác Ngài sẽ không bao giờ bị phân hủy nữa. Với họ, đây thực sự là một phép lạ và biến cố này làm cho họ không bao giờ mất đi niềm hy vọng, ngay cả khi phải sống trong những hoàn cảnh xem ra vô vọng, dầu với tư cách cá nhân, hay giáo hội hoặc quốc gia. Với quyền năng của Thiên Chúa, chẳng có gì là quá trễ để làm cho một người, một Giáo hội hay một quốc gia được sống lại. Thế nhưng, trước tiên chúng ta phải học biết cộng tác với Thiên Chúa. Làm thế nào chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa một khi đã trải nghiệm quyền năng phục sinh của Thiên Chúa nơi cuộc sống của chúng ta và của thế giới này? Mọi người dường như đều có được câu trả lời: chính nhờ Đức tin. Nhưng đó không phải là điều mà Thánh Gio-an muốn nhấn mạnh trong câu chuyện này. Thực thế, chẳng có ai trong trình thuật này, ngay cả Maria hay Mát-ta, là những người tin rằng Đức Giê-su có thể làm cho La-da-rô sống lại sau 4 ngày cả. Chẳng ai kỳ vọng Ngài có thể làm được chuyện đó, và vì thế một niềm tin như đáng được mong đợi, lại không được nhấn mạnh ở đây. Điều cần nhấn mạnh hơn trong trình thuật, đó là: Việc chúng ta cần cộng tác với một vị Thiên Chúa làm-phép-lạ như thế nào, lại được thể hiện qua sự vâng phục thực tiễn và làm theo ý Thiên Chúa. Để cho phép lạ xảy ra, Đức Giê-su truyền 3 lệnh, và cả 3 lệnh này đều phải được vâng theo từng chữ một. Nhờ thế mà phép lạ đã xảy ra. Lệnh thứ nhất, “Đức Giê-su nói: đem phiến đá này đi!... rồi người ta đem phiến đá đi” (c. 39-41) Liệu người ta có hiểu được lý do tại sao họ phải làm một công việc nặng nhọc là lăn hòn đá che lấp cửa mộ đi, để lộ ra một thân xác đang bị thối rữa và bốc mùi? Chắc chắn là dân chúng không hiểu. Ở đây, dù xem ra không hợp lý theo suy nghĩ thường tình của lý trí, nhưng dân chúng vẫn tin vào lời của Đức Giê-su và thể hiện qua sự vâng lời cụ thể. Tại sao Đức Giê-su không truyền lệnh để hòn đá lấp cửa mộ tự lăn sang một bên, mà chẳng cần ai đụng tay vào? Chúng ta chẳng hiểu được. Tất cả những gì chúng ta biết là: Đấng có quyền năng Thiên Chúa luôn đòi hỏi sự cộng tác của chúng ta, như C.S Lewis đã nói: “Thiên Chúa dường nhưng chẳng tự mình làm những gì mà Ngài có thể ủy thác cho các tạo vật của Người”. Thiên Chúa sẽ chẳng hóa phép điều mà con người có thể làm với sự vâng phục. Lệnh truyền thứ hai mà Đức Giê-su đưa ra thì trực tiếp nói với kẻ chết: “Anh La-da-rô, hãy ra khỏi mồ! Người chết liền ra...” (c. 43-44) Chúng ta không biết những chi tiết của những gì xảy ra trong ngôi mộ. Những gì chúng ta biết được, đó là lệnh truyền của Đức Giê-su được đưa ra, và theo sau là một sự vâng phục ngay tức khắc. La-da-rô đang chập choạng tìm lối ra khỏi ngôi mộ tăm tối, “tay chân còn quấn vải, và mặt còn phủ khăn” (c. 44) Ngay cả một con người đang thối rữa ra trong ngôi mộ, vẫn còn có thể tự làm được việc này cho bản thân mình. Lệnh truyền thứ ba lại được nhắm tới dân chúng: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi” (c. 44). Ngay cả La-da-rô cũng có thể bị vấp té khi bước ra khỏi ngôi mộ, vì anh ta không thể tự tháo cởi dây băng mà người ta đã quấn khi liệm xác của anh. Anh cần đến dân chúng giúp anh ta làm điều này. Nhờ việc tháo gỡ dây và khăn liệm, anh có thể tự do trở lại với cuộc sống bỉnh thường chung với cộng đồng. Nhiều ki-tô hữu và những cộng đoàn ki-tô hữu ngày nay đã phải chết vì tội. Nhiều người đã phải ở trong những nấm mồ của sự vô vọng và sự hủy diệt, vì những thói quen hoặc lối sống tội lỗi của họ. Chẳng có một phép lạ nào đưa họ trở về với sự sống trong Đức Ki-tô. Thế nhưng Đức Ki-tô vẫn sẵn sàng làm phép lạ. Ngài đã nói: “Ta đến để cho chiên đực sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Liệu chúng ta có sẵn sàng cộng tác với Đức Giê-su để phép lạ xảy ra? Liệu chúng ta có sẵn sàng thực hiện bước đầu tiên để ra khỏi cõi chết? Liệu chúng ta có sẵn sàng tháo cởi (chẳng hạn tha thứ) cho người khác và giúp họ được tự do? Đây là những cách thế khác nhau mà chúng ta có thể cộng tác với Thiên Chúa trong việc thực hiện phép lạ mang lại sự sống cho từng người trong chúng ta, hay cả tập thể là giáo hội hoặc một dân nước. 45. Suy niệm của JKNCâu hỏi gợi ý: 1. Đức Giêsu đã làm cho Ladarô sống lại, điều đó chứng tỏ điều gì? Phải là ai mới có thể thực hiện được điều ấy? 2. Bạn còn nhớ nội dung các bài Tin Mừng Chúa Nhật mùa Chay vừa qua không? Loạt bài Tin Mừng mùa Chay muốn chứng tỏ điều gì về Đức Giêsu? 3. Đức Giêsu xúc động và khóc trước mộ Ladarô cho thấy tình yêu và tình cảm của Ngài thế nào? Ta có cần biểu lộ tình yêu của mình đối với tha nhân một cách cụ thể như thế không? Suy tư gợi ý: 1. Đức Giêsu có khả năng làm cho kẻ chết sống lại Dùng quyền năng siêu nhiên để làm cho người bệnh nan y được khỏi bệnh thì có khá nhiều người làm được. Nhưng làm cho người đã chết sống lại thì chỉ những người có sứ mạng đặc biệt của Thiên Chúa mới thực hiện được nhờ quyền năng vô biên của Ngài. Trong Cựu Ước ta thấy ngôn sứ Ê-li-a đã làm cho con trai của bà góa ở Sa-rép-ta sống lại (xem 1Vua 17,17-24), và ngôn sứ Ê-li-sa cũng làm như thế cho đứa con trai của bà Su-nêm (xem 2Vua 4,32-37). Trong Tân Ước, ngoài Đức Giêsu ra, ta thấy có Phê-rô cũng đã làm cho bà Ta-bi-tha đã chết sống lại (xem Cv 9,39-42). Còn Đức Giêsu, Ngài đã làm cho người chết sống lại ít nhất 3 lần: cho con trai bà góa thành Na-in (x. Lc 7,11-15), cho con gái một ông trưởng hội đường (x. Mt 9,18-26; Mc 5,35-43; Lc 8,49-56), và cho Ladarô như bài Tin Mừng hôm nay tường thuật lại (x. Ga 11,34-45). Nơi những trường hợp được hồi sinh vừa kể, việc sống lại – hầu tiếp tục sự sống ở trần gian ít lâu nữa để rồi cũng lại chết – chỉ là một hình ảnh hay dấu chỉ của sự sống lại vĩnh viễn để sống sự sống đời đời. Sự sống lại để sống đời đời này chính Đức Giêsu đã thực hiện cho chính mình (x. Mt 28,1-8; Mc 16,1-8; Lc 24,1-7; Ga 20,1-10). Đó chính là bằng chứng bảo đảm cho niềm tin vào sự sống lại của chính chúng ta để hưởng sự sống vĩnh cửu. Thật vậy, “nếu Đức Kitô không phục sinh, thì niềm tin và lời rao giảng của chúng ta là vô ích” (1 Cr 15,14), là hoàn toàn vô căn cứ, không dựa trên một nền tảng nào. Và việc phục sinh của Ngài cũng chính là bằng chứng để ta tin Ngài là Con Thiên Chúa, đồng thời cũng là Thiên Chúa. Vì trong lịch sử nhân loại, sống lại để sống vĩnh cửu như thế – nghĩa là hiện nay, sau 2000 năm, Ngài vẫn đang sống, và sẽ còn sống mãi – thì chỉ có một mình Đức Giêsu mà thôi. 2. Đức Giêsu chính là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia, và cũng là con người như chúng ta Các bài Tin Mừng các Chúa Nhật Mùa Chay muốn chứng tỏ Đức Giêsu vừa là Thiên Chúa vừa là con người, Ngài chính là Đấng Thiên Sai mà các ngôn sứ đã hứa, mà người Do Thái trông chờ hàng mấy trăm năm. Việc Đức Giêsu chịu cám dỗ (Chúa Nhật thứ 1 mùa Chay) cho thấy Đức Giêsu là người đích thực, Ngài rất thông cảm với sự yếu đuối của con người. Việc Đức Giêsu hiển dung (CN 2 mùa Chay) cho thấy thần tính của Ngài, cho thấy Ngài là Con Thiên Chúa, được chính Chúa Cha giới thiệu. Câu chuyện về nước hằng sống với người phụ nữ Sa-ma-ri (CN 3 mùa Chay) cho thấy Ngài có khả năng đem lại sự sống vĩnh cửu cho con người, và Ngài tự xác nhận mình là đấng Mêsia mà mọi người trông đợi. Việc làm sáng mắt người mù từ khi mới sinh (CN 4 mùa Chay) cho thấy quyền năng đặc biệt của Ngài và cách Ngài hành xử theo tình yêu hơn là theo lề luật. Quyền năng ấy lại còn đặc biệt hơn nữa với bài tường thuật Ngài làm cho kẻ chết đã 4 ngày sống lại trong bài Tin Mừng hôm nay (CN 5 mùa Chay). Trong bài Tin Mừng này, Ngài còn tự xác nhận mình chính là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời. Cuối cùng, Chúa Nhật kế tiếp (CN Phục Sinh) thuật lại việc sống lại của chính Ngài sau khi chịu tử nạn làm hy tế đền tội cho nhân loại. Sự sống lại này là dấu chứng vĩ đại và chắc chắn nhất chứng tỏ Ngài là Con Thiên Chúa, là Đấng Mêsia. Bài Tin Mừng hôm nay chứng minh một cách tổng hợp Ngài vừa là Thiên Chúa vừa là con người, một con người đúng là con người, hết sức nhân bản. Ngài là Thiên Chúa, vì có khả năng làm cho kẻ chết sống lại. Là con người, vì khi đến nhà người mình yêu thương đã chết, Ngài cũng “thổn thức trong lòng và xao xuyến” (câu 33b), Ngài đã khóc (câu 35) khi đứng trước mộ Ladarô. Chắc hẳn Ngài đã tỏ ra xúc động rất nhiều đến nỗi những người có mặt ở đấy đã phải thốt lên: “Kìa xem! Ông ta thương anh Ladarô biết mấy!” (câu 36). Như vậy, Ngài không chỉ yêu thương chúng ta bằng thứ tình yêu đầy tính thần linh của một vị Thiên Chúa, mà còn yêu bằng chính tình cảm đầy tính người của con người. Và dù mang tính con người, tình yêu ấy vẫn rất bao la, rộng rãi, và triệt để: “Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1b). “Đến cùng” ở đây là tới mức tận cùng của tình yêu con người, không ai – kể cả Ngài – có thể yêu hơn được nữa: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). 3. Hãy yêu thương như Đức Giêsu đã yêu thương Đức Giêsu đã yêu thương ta và yêu thương mọi người bằng trái tim con người thế nào, Ngài cũng mời gọi ta yêu thương nhau, yêu thương tha nhân y như vậy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 15,12). Có yêu thương như thế, ta mới chứng tỏ mình theo Ngài: “Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau” (Ga 13,35). Tình yêu nhân bản của Đức Giêsu được biểu lộ ra bên ngoài bằng sự xúc động mãnh liệt như trường hợp đối với Ladarô, nhất là bằng những hy sinh đến chết cho nhân loại. Tình yêu tuy ẩn sâu kín trong lòng con người không ai thấy được, nhưng nếu là tình yêu đích thực thì nó luôn luôn được biểu lộ ra ngoài thành những ánh mắt trìu mến, cử chỉ yêu thương, lời nói dịu dàng, và nhất là bằng sự quan tâm, giúp đỡ, hy sinh thật sự cho người mình yêu. Tình yêu không thể dấu kín. Tình yêu dấu kín trong lòng là tình yêu đáng nghi ngờ. Nếu “đức tin không có hành động là đức tin chết” (Gc 2,17.26), thì một cách tương tự, tình yêu không được biểu lộ cụ thể là tình yêu giả hiệu. Chính “Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta, đã biểu lộ lòng nhân hậu và lòng yêu thương của Người đối với nhân loại” (Tt 3,4), và “Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống” (1Ga 4,9). Vì thế, chúng ta hãy biểu lộ tình yêu của mình đối với mọi người bằng những cử chỉ, lời nói và hành động cụ thể. Cầu nguyện Lạy Cha, Cha đã tỏ tình yêu của Cha một cách cụ thể cho nhân loại qua việc sai Đức Giêsu là hiện thân của Cha đến thế gian chịu chết để cứu chuộc họ. Đức Giêsu cũng biểu lộ tình yêu của Ngài một cách rất cụ thể qua việc khóc thương Ladarô, và qua việc hiến mình đến chết cho nhân loại. Xin giúp con cũng biết thật sự yêu thương những người chung quanh con, và biểu lộ tình yêu thương ấy thật cụ thể qua ánh mắt, cử chỉ, lời nói và hành động. Amen. 46. Suy niệm của JKN- 2Câu hỏi gợi ý: 1. Thiên Chúa có đòi hỏi ta tin vào Ngài một cách không bằng chứng, không cơ sở, không hợp lý không? Trước khi mời gọi ta tin vào Ngài, Ngài có cho ta một kinh nghiệm nào về Ngài hầu ta có cơ sở để tin không? 2. Tại sao Đức Giêsu cố ý không về gặp Lagiarô khi ông còn sống mà để ông chết rồi mới về (x. Ga 11,6)? Mục đích của Đức Giêsu khi làm cho Lagiarô sống lại là gì? Để chuẩn bị và củng cố niềm tin cho các ông về sự sống lại của Ngài? Suy tư gợi ý: 1. Đức tin vào Thiên Chúa phải dựa trên những kinh nghiệm trong quá khứ về tình yêu và quyền năng của Ngài Trong 28 câu của bài Tin Mừng, chúng ta thấy có đến 9 chữ “tin”. Toàn bài nhấn mạnh đến sự cần thiết phải tin vào tình yêu và quyền năng Thiên Chúa để giải quyết những vấn đề cụ thể của đời sống thực tế và thường ngày của mỗi người. Nhờ tin vào tình yêu và quyền năng của Thiên Chúa, chúng ta mới có đủ sức mạnh để vượt qua những khó khăn, và thực hiện những gì cần thiết cho hạnh phúc và cuộc sống của ta. Đành rằng tin là chấp nhận những gì trước mắt chưa rõ ràng và chắc chắn, nhưng Thiên Chúa không bao giờ đòi hỏi chúng ta tin Ngài cách mù quáng, không có bằng chứng xác đáng. Ngài chỉ đòi hỏi chúng ta tin những gì đáng tin mà thôi. Trước khi đòi hỏi ta tin vào tình yêu và quyền năng của Ngài, Ngài luôn luôn tạo chúng ta cơ hội để kinh nghiệm thật sự về tình yêu và quyền năng của Ngài. Kinh nghiệm ấy sẽ trở thành nền tảng để chúng ta tin vào Ngài trong những hoàn cảnh hay tình huống mới. Trong đời thường, khi hùn một số vốn thật lớn để làm ăn chung với ai, ta phải tin vào lương tâm và khả năng làm ăn của người ấy. Làm sao ta có thể tin người ấy một cách vững vàng, nếu ta chưa hề thấy người ấy chứng tỏ sự đáng tin của họ? Phải dựa vào đâu để biết được họ đáng tin? – Trước khi hùn một số vốn lớn để làm ăn với ai, ta phải có thời làm ăn với họ trong những vụ làm ăn nhỏ. Khi làm ăn nhỏ, nếu họ tỏ ra đáng tin, ta mới dám tiếp tục làm ăn với họ trong những vụ lớn hơn. Kinh nghiệm về thành quả quá khứ sẽ trở thành nền tảng cho niềm tin trong hiện tại. Những người tự tin vào mình cũng đều có kinh nghiệm về khả năng của mình trong quá khứ. Có thấy được khả năng của chính mình trong quá khứ qua những thành công nho nhỏ, ta mới dám tự tin vào mình trong những chuyện lớn hơn. Niềm tin được xây dựng trên kinh nghiệm của quá khứ như thế mới là niềm tin khôn ngoan và mới vững mạnh được. Niềm tin vào Thiên Chúa cũng phải dựa vào kinh nghiệm quá khứ như thế. 2. Thiên Chúa chỉ mời gọi ta tin và thử thách đức tin của ta khi đã cho ta những kinh nghiệm về Ngài Khi đặt niềm tin vào một người, có hai thái độ nên tránh: – một là chưa có kinh nghiệm gì về sự đáng tin của người ấy mà đã vội tin. Đây là thái độ cả tin, nhẹ dạ, rất nguy hiểm và thiếu khôn ngoan. – hai là đã thấy người ấy tỏ ra rất đáng tin trong những chuyện nhỏ, mà vẫn không dám đặt niềm tin vào người ấy trong những chuyện khác hoặc chuyện lớn hơn một chút. Như vậy, dù người ấy có đáng tin tới mức độ nào, ta cũng không dám tin. Điều này khiến ta mất đi nhiều cơ hội quý trong cuộc đời. Một người làm ăn mà có thái độ này thì không bao giờ làm ăn lớn được, và không bao giờ giàu có được. Khi tin vào Thiên Chúa, ta cần tránh hai thái độ ấy. Thiên Chúa không bao giờ mời gọi hay đòi hỏi ta tin điều gì mà ta chưa hề có kinh nghiệm về sự đáng tin của nó. Khi Ngài mời gọi hay đòi hỏi ta tin, thì chắc chắn trước đó Ngài đã từng chứng tỏ tình yêu và quyền năng của Ngài để ta có cơ sở cho niềm tin của ta trong những trường hợp sau. Nhưng khi ta đã có kinh nghiệm nhiều lần về tình yêu và quyền năng của Ngài, thì Ngài thường thử thách niềm tin của ta. Nếu ta không dám tin vào quyền năng của Ngài mà ta đã từng có kinh nghiệm trong quá khứ, thì ta sẽ không có thêm kinh nghiệm về quyền năng ấy. Đức tin của ta sẽ dừng lại đó, không lớn mạnh thêm, mà trái lại, có thể bị hao hụt đi. Ngược lại, nếu ta tin và chứng tỏ niềm tin ấy bằng sự dấn thân cụ thể, ta sẽ kinh nghiệm thêm lần nữa về quyền năng của Ngài. Nhờ đó đức tin của ta lớn mạnh hơn. Một đức tin vững mạnh sẽ biến đổi ta thành “con người mới” (Ep 2,15; 4,24; Cl 3,10) và đời sống ta thành “đời sống mới” (Rm 6,4; 8,11; Cl 3,3). Chẳng hạn, khi dân Do Thái chưa có kinh nghiệm về Ngài, thì Ngài cho họ kinh nghiệm ấy. Ngài cho họ vượt qua Biển Đỏ cách lạ lùng và cứu họ khỏi đất Ai Cập. Lần đó, Ngài đã làm cho nước ở Biển Đỏ rẽ ra trước rồi sau đó mới bảo họ bước xuống biển (x. Xh 14,21-22). Ngài không đòi hỏi họ lòng tin vì họ chưa có kinh nghiệm về quyền năng của Ngài. Nhưng khi Ngài yêu cầu các tư tế khiêng hòm bia qua sông Giođan, Ngài không còn làm cho nước rẽ ra trước, mà yêu cầu họ bước xuống sông khi nước sông vẫn còn tràn bờ. Lần này Ngài mới đòi hỏi họ phải tin, vì họ đã có kinh nghiệm về quyền năng của Ngài. Và họ đã chứng tỏ niềm tin của họ bằng hành động cụ thể là dám bước xuống sông khi còn đầy nước. Và Thiên Chúa không để họ mất niềm tin: khi chân họ vừa đụng xuống mặt nước, thì nước lập tức rẽ sang hai bên để họ đi qua (x. Gs 3,13). Cũng vậy, để chuẩn bị và củng cố niềm tin cho các tông đồ vào sự sống lại của Ngài, Đức Giêsu đã cố ý (x. Ga 11,4.15) cho các tông đồ một kinh nghiệm vô cùng sống động về quyền năng phi thường của Ngài. Đó là Ngài làm cho Lagiarô sống lại, chưa kể trước đó Ngài đã từng làm kẻ chết sống lại nhiều lần trước mặt các tông đồ (x. Mt 9,25; Lc 7,14-15; Ga 4,50-53). Thế mà khi Đức Giêsu chết, nhiều tông đồ đã mất hết niềm tin đến nỗi thất vọng và sợ hãi. 3. Kinh nghiệm cá nhân Về phương pháp sư phạm của Thiên Chúa để củng cố niềm tin cho mỗi người, tôi xin chia sẻ kinh nghiệm cá nhân của tôi. Hiện nay, tôi tin khá vững vàng vào sự quan phòng của Thiên Chúa trong đời sống tôi. Vì tôi từng kinh nghiệm khá nhiều về việc Thiên Chúa can thiệp và dẫn dắt tôi một cách lạ lùng. Trong đó có việc rất cụ thể là Thiên Chúa lo cho đời sống vật chất của tôi và gia đình trên 20 năm qua (tính từ khi tôi lập gia đình). Niềm tin của tôi khởi đầu bằng một lập luận. Tôi cho rằng Thiên Chúa đã tạo dựng nên vũ trụ và chính con người tôi một cách vô cùng hoàn hảo. Nếu Ngài đã tạo dựng nên bộ máy tiêu hóa ở trong tôi một cách thật khôn ngoan và thông minh tuyệt vời, chẳng lẽ Ngài lại để cho bộ máy ấy thiếu thức ăn để tiêu hóa. Tôi không thể tin rằng Ngài lại là hạng người “đánh trống bỏ dùi” hay “đem con bỏ chợ”: dựng nên bộ máy tiêu hóa một cách hoàn hảo với những đòi hỏi của nó để rồi lại để nó lâm cảnh thiếu thốn, không có gì để tiêu hóa (xem thêm Mt 6,25-34). Nếu tôi có bị đói hay bị thiếu thốn thì tôi tin rằng đó là do lỗi của tôi: tôi đã vi phạm luật thiên nhiên hoặc luật của Ngài khi không làm theo đúng những gì lương tâm và tình yêu mình đòi buộc. Tin tưởng như thế, nên khi có sự xung đột giữa tiếng lương tâm và nhu cầu sinh sống – nghĩa là nếu làm theo đòi hỏi của lương tâm hay tình yêu ắt có nguy cơ bị thiếu thốn – thì tôi cứ liều hay can đảm làm theo lương tâm, phó mặc chuyện sinh sống của mình cho Ngài. Kinh nghiệm nhiều lần cho tôi thấy: khi suy nghĩ và hành động như vậy, chẳng những tôi không bị thiếu thốn, mà Ngài còn ban cho tôi đầy đủ hơn nữa. Tôi nhận ra Ngài có trăm ngàn cách kỳ diệu để lo lắng cho tôi khi tôi quyết sống theo đường lối Ngài. Trái lại, khi tôi lo sợ thiếu thốn đến nỗi không dám làm theo thánh ý Ngài, không theo đường lối Ngài, thì tôi thường phải trả giá cho việc ấy bằng một sự thiệt hại nào đó, có thể là sự thiếu thốn hơn. CẦU NGUYỆN Lạy Cha, xin cho con biết dựa vào tình yêu và quyền năng của Cha mà con đã kinh nghiệm trong quá khứ để tin vững vàng hơn hầu quảng đại và can đảm dấn thân theo đường lối và thánh ý Cha. 47. Chuyển rời, Đến gặp và Tin thì được Sống--Jos. Vinc. Ngọc BiểnChúng ta đang sống trong tinh thần Mùa Chay. Mùa Chay nhắc nhớ chúng ta ăn chay, hãm mình và làm việc bác ái. Thiết nghĩ, làm những việc đó để làm gì nếu không phải hy vọng được tha thứ tội lỗi, và mong đạt được sự sống đời đời sau cái chết! Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay hé mở cho chúng ta chân trời hy vọng ấy khi trình thuật phép lạ Đức Giêsu cho anh Ladarô chết sống lại! Qua phép lạ cho Ladarô hồi sinh sau khi chết, Đức Giêsu mặc khải cho chúng ta thấy Ngài chính là nội dung của niềm hy vọng phục sinh; đồng thời cũng mời gọi chúng ta hãy tin tưởng và phó thác nơi Ngài, thì cũng sẽ được sống. Vì thế, chính Ngài đã nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Các bài đọc sẽ lần lượt giúp cho chúng ta hiểu thêm về ý nghĩa bài Tin Mừng hôm nay. 1. Ý nghĩa Lời Chúa Trước tiên là bài đọc I (Ed 37, 12-14), trình thuật việc dân Israel sống trong cảnh cơ cực bần cùng tại Babylon trong thân phận lưu đầy. Khi sống trong cảnh tối tăm như thế, họ không biết gì đến tương lai. Đối với họ, tương lại hoàn toàn mù mịt: không đền thờ, không tư tế, không hy vọng, ở tản lạc giữa các dân ngoại... họ chẳng khác gì như một đống xương khô nơi nấm mồ trong thung lũng thẳm sâu (x. Ed 37, 114). Tuy nhiên,Thiên Chúa vẫn không bỏ rơi họ, nên đã sai tiên tri Êdêkiel đến để nâng đỡ, an ủi và loan báo cho họ một tương lai sáng sủa hơn, tốt đẹp hơn và tràn đầy hạnh phúc khi dân Israel được hồi hương nếu họ trung thành và sẵn sàng nghe theo huấn lệnh của Thiên Chúa. Được hồi hương, thoát khỏi cảnh nô lệ bên Babilon thì chẳng khác gì được trỗi dạy từ những nấm mồ là hình bóng của sự chết tróc (x. Ed 37, 12-14). Tiếp theo, bài đọc II (Rm 8, 8-11), thánh Phaolô đã lay động tâm hồn tín hữu Rôma bằng việc đưa ra những hình ảnh gợi cảm nhằm biểu đạt một niềm hy vọng cho tương lai. Vì vậy, ngài đã ví những người sống trong cảnh buông thả, dung dưỡng xác thịt, không sống theo Thần Khí thì chẳng khác gì một người đang bị nấm mồ thần chết vô hình do tội lỗi vây hãm. Tuy nhiên, thánh nhân cũng củng cố niềm tin và mời gọi hãy gắn bó với Đức Giêsu nhờ Thánh Thần của Ngài, để trong ta có Chúa và trong Chúa có ta, thì cho dù chúng ta có chết, Ngài cũng sẽ cho chúng ta sống lại. Cuối cùng, bài Tin Mừng đem lại cho chúng ta tràn đầy hy vọng khi trình thuật việc Đức Giêsu cho anh Ladarô là bạn thân tín của Ngài đã chết 4 ngày được sống lại. Sự hồi sinh Ladarô, một mặt nhờ niềm tin của Martha, mặt khác để tôn vinh Thiên Chúa Cha, và cũng để củng cố niềm tin nơi các môn đệ cũng như những người hiện diện, đồng thời cũng tiên báo một cuộc sống mới sau cái chết của những người tin vào Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu khẳng định Ngài là Thiên Chúa, nên ai tin vào Ngài thì sẽ được sự sống đời đời làm gia nghiệp. 2. Đức Giêsu là sự sống Nếu Chúa Nhật 4 Mùa Chay, câu chuyện Tin Mừng mời gọi chúng ta chiêm ngưỡng Đức Giêsu chính là sự sáng thế gian qua trình thật việc Đức Giêsu làm phép lạ cho người mù được sáng mắt, thì Chúa Nhật này, như một sự tiệm tiến để dẫn đến một mặc khải quan trọng hơn, mặc khải về Đức Giêsu chính là sự sống. Trình thuật được khởi đi từ việc Đức Giêsu quyết định đi lên Giêrusalem. Đi lên Giêrusalem vào thời điểm này thì đồng nghĩa với việc đón nhận cái chết. Nhưng vì vâng lời Chúa Cha và yêu thương con người, nên Ngài đã sẵn sàng. Vì vậy, khi nghe thấy có người đưa tin về Ladarô bạn của Ngài đau mệt, Đức Giêsu đã không đi ngay, mà phải đợi đến khi Ladarô chết và được an táng tới 4 ngày trong mồ, Ngài và các môn đệ mới tới. Khi đến Bêtania, Ngài thổn thức vì thấy nỗi đau khổ của hai chị em Martha và Maria mất em, của những người hàng xóm thương khóc bạn thân. Thấy Đức Giêsu, Martha đã chạy lại và nói: “Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết" (Ga 11, 21). Lời nói này có thể là một lời trách nhẹ và cũng là một lời tuyên xưng niềm tin mãnh liệt vào Đức Giêsu. Thật thế, ngay sau câu nói đó, Martha tiếp: "Nhưng bây giờ con biết: bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy" (Ga 11, 22). Đức Giêsu đã không để cho Martha thất vọng và những người Dothái phải chờ đợi, vì thế Ngài đã trấn an ngay: "Em chị sẽ sống lại!". Tuy nhiên, Martha hiểu về việc thân xác của Ladarô sẽ được phục sinh trong ngày sau hết: "Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết” (Ga 11, 24). Đức Giêsu đã khẳng định rằng Ngài có toàn quyền trên sự chết khi nói: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Nhưng vì quá đỗi hồi hộp và luýnh quýnh, niềm tin lại một lần nữa bị thử thách đối với Martha, vì thế bà thưa: "Thưa Thầy, nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày". Nhưng Đức Giêsu đã đòi Martha phải đặt trọn niền tin vào Thiên Chúa: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?” (Ga 11, 39). Và như một sự minh định, Ngài đã truyền lệnh cho lăn phiến đá lấp cửa mồ ra, và lớn tiếng truyền lệnh cho Ladarô ra khỏi mồ. Ngay lập tực, Ladarô tiến ra và thần chết đã bị đẩy lui cho sự sống hồi sinh. Theo qua niệm của người Dothái, thì câu nói của Martha “... đã 4 ngày rồi” hàm ý nói rằng khi một người đã chết được 4 ngày thì linh hồn chỉ lởn vởn chứ không nhập được vào thân xác nữa..., nên việc hồi sinh kẻ chết quả là một chuyện khó khăn. Tuy nhiên, sự chậm trễ của Đức Giêsu; việc xác chết đã 4 ngày... chuyện đó đâu có gì khó đối với Đấng là nguồn sự sống! Qua lệnh truyền và hình ảnh các mảnh vải quấn thân xác của Ladarô được tháo cởi, có ý muốn nói lên sự chết không còn có quyền chi đới với Đức Giêsu nữa, và khi con người được giải thoát khỏi nấm mồ sự chết thì cũng là lúc con người được tự do đích thực và cái chết không thể chế ngự được gì trước Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Như vậy, việc Đức Giêsu cố tình chậm trễ như thế là để nhằm cho người ta thấy rằng, Ngài làm chủ trên sự sống và sự chết của con người. Khi Đức Giêsu đã chiến thắng thần chết trên Ladarô thì cũng là lúc giờ Thiên Chúa Cha được tôn vinh nơi Ngài. 3. Sống sứ điệp Lời Chúa Toàn bộ bài Tin Mừng hôm nay mặc khải cho chúng ta thấy Đức Giêsu chính là sự sống. Tuy nhiên, muốn đạt được sự sống ấy, thì chúng ta phải tin nơi Đức Giêsu là sự sống. Ngài sẽ làm cho thân xác hư nát, phải chết của chúng ta trở thành thân xác sáng láng vinh hiển của Ngài. Mặt khác phải ra khỏi chính mình, ra khỏi cái tôi tự kiêu để đến với Đức Giêsu. Nếu chúng ta không đến với Ngài, chúng ta sẽ không có nguồn sự sống từ nơi Ngài. Thật vậy, cành không thể có sự sống nếu không gắn liền với thân cây. Cành chỉ có sự sống và từ sự sống ấy mới sinh ra nhiều hoa trái dồi dào được. Sự gắn bó với Đức Giêsu được kể như là điều kiện cần để được sống đời đời. Dưới ngòi bút của một nhà thần học siêu nghiệm, thánh Gioan muốn nhấn mạnh đến sự “chuyển rời” hiện tại để hướng đến một bước tiến mới. Trước tiên là sự “chuyển rời” của người đưa tin cho Đức Giêsu về việc Ladarô đang bệnh nặng; rồi Đức Giêsu và các môn để “chuyển rời” từ bên kia sông Giođan để đến Bêtania; Martha đã “chuyển rời” từ trong nhà để ra đón Ngài; Đức Giêsu, các môn đệ, hai người chị của người chết và những người Dothái đã “chuyển rời” từ nhà của người chết để đến nơi đã an táng; và cuối cùng là Ladarô “chuyển rời” để ra khỏi mồ. Hình ảnh này cho chúng ta thấy rằng, đời sống của con người chúng ta cần phải “chuyển rời” để thay đổi nếp sống cũ, con đường cũ, nói chung là con người và hành vi tội lỗi của chúng ta, để thay vào đó là một cuộc đời mới, cuộc đời thánh thiện, công chính; một cuộc đời và một sự sống có Chúa. Khi có Chúa, chúng ta đạt được sự sung mãn trong tình yêu của Chúa. Thật vậy, Nếu chúng ta sống dung túng và hào phóng trong tội. Không gắn bó với Chúa. Chúng ta cũng sẽ chết. Tuy nhiên, nếu chúng ta thay đổi nếp sống cũ là ích kỷ, tham lam, hà tiện, kiêu ngạo... và tin tưởng vào Đức Giêsu, thì chúng ta cũng sẽ được sống đời đời: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống” (Ga 11, 25). Khi tin như thế, cả con người và hành vi của chúng ta hướng về Chúa, về Nước Trời và như một sự “chuyển rời” để từ ích kỷ đến lòng bao dung. Từ thất vọng đến niềm hy vọng. Từ miền u tối đến miền ánh sáng. Từ sự chết đến nguồn sự sống. Như vậy, nhờ có sự “chuyển rời” mà sự chết nơi chúng ta là những người tin, không trở nên bi đát, ngõ cụt. Nhưng chỉ là một cuộc chuyển mình hầu vượt qua cái chết để tiến đến vinh quang mà thôi. Thật vậy, thánh Phaolô đã nói: “Quê hương chúng ta ở trên trời, và chúng ta nóng lòng mong đợi Đức Giêsu từ trời đến cứu chúng ta. Người có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Người” (Pl 3,20-21). Lạy Chúa Giêsu, xưa Chúa đã làm phép lạ cho Ladarô chết 4 ngày sống lại, nhằm củng cố niềm tin của những người đương thời với Chúa, và cũng mặc khải cho mỗi người chúng con biết rằng chính Chúa là sự sống lại và là sự sống. Xin cho mỗi người chúng con ý thức được điều đó để thêm tin, thêm mến, thêm cậy trông vào Chúa hầu được sự sống đời đời. Amen. 48. Thầy là sự sống lại và là sự sống--Lm FX Vũ Phan Long1.- Ngữ cảnh Với biến cố Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, chúng ta sang phần II của TM IV, gọi là “Sách về Giờ của Đức Giêsu” (11,1–20,29). Phân đoạn 11,1–12,50 là “phân đoạn làm cầu”, ghi lại “Dấu lạ cao điểm và sự kiện Giờ của Đức Giêsu đến”. Bản văn đọc trong Phụng vụ Thánh lễ hôm nay trích từ Ga 11,1-54 là phân đoạn nói về Dấu lạ Đức Giêsu cho Ladarô sống lại, nói về sự sống lại và sự sống, và quyết định của Thượng Hội Đồng là tìm cách giết Người. Biến cố Đức Giêsu làm cho Ladarô sống lại được đặt vào cuối sứ vụ công khai của Đức Giêsu. Đây không chỉ là hành vi quyền lực (= dấu lạ) cuối cùng, nhưng là hành vi lớn lao nhất, bởi vì Người không chỉ giới hạn vào việc chữa lành mộtchứng bệnh, nhưng đưa mộtngười từ cõi chết trở lại với cuộc sống. Đây là dấu lạ quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối. Những nét tiêu biểu của phép lạ này là: Người thực hiện hành vi ấy cho mộtngười bạn và giữa vòng các bạn hữu, nhưng có nhiều người khác chứng kiến và các chứng nhân này có tham gia vào hành vi của Người. Trong các trường hợp khác, trước tiên Đức Giêsu làm dấu lạ, rồi sau đó, trong những đối thoại, Người mới đưa người ta đến chỗ hiểu ý nghĩa của dấu lạ. Còn ở đây, với nhiều lời công bố, Người đã cho các môn đệ, các thân nhân và dân chúng thấy trước ý nghĩa của hành vi quyền lực sắp được thực hiện và là điểm cao nhất trong các hành vi quyền lực. Mọi sự đều đưa tới chỗ chứng minh cho thấy là Người có quyền trên sự chết. Sự cố này xảy ra sau khi các đối thủ của Người đã tìm cách bắt Người (10,39). Đức Giêsu lui về vùng phía đông sông Giođan. Tại đây Người nhận được tin bạn Người là Ladarô đau ốm (11,1-6). Sự cố này mở ra với bài diễn từ cáo biệt và cuộc Thương Khó, bởi vì chính sự cố này đưa đến chỗ Thượng Hội Đồng kết án tử cho Đức Giêsu. Đọc bản văn này, độc giả cũng nên lưu ý đến tài nghệ tuyệt luân của tác giả khi vận dụng các yếu tố “sai thời gian” (anachronie) cũng như “nhắc lại” (analepse), “báo trước” (prolepse), để giới thiệu các điểm giáo lý sâu sắc được chứa đựng trong bản văn. Chúng ta sẽ nói đến điểm này trong phần “Ý nghĩa của bản văn” [Có thể đọc Lê Minh Thông, “Ga 11,1-54: “Chết” và “sống””, Phân tích thuật chuyện và phân tích cấu trúc áp dụng vào Tin Mừng thứ tư (2008) 141-179, để ghi nhận cách áp dụng phương pháp phân tích thuật chuyện và cấu trúc vào bản văn.]. 2.- Bố cục Bản văn có thể chia làm năm phần: 1) Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (11,1-6); 2) Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (11,7-16); 3) Đức Giêsu gặp hai chị em (11,17-38a); 4) Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (11,38b-44); 5) Kết luận: Ghi chú về đức tin (11,45). 3.- Vài điểm chú giải - Ladarô (1): Tên La‘zar là cách gọi tắt tên Eleazar (Êlêadarô), mộttên rất quen thuộc vào thời Tân Ước. Eleazar có nghĩa là “Thiên Chúa trợ giúp”. Tác giả TM IV không giải thích ý nghĩa của tên này. - Bêtania (1): Có những người cho rằng đây là mộttên có ý nghĩa tượng trưng, phái sinh từ tên Bet-‘anya, “nhà của nỗi phiền sầu”. Làng Bêtania gần Giêrusalem được mọi người biết như là nơi Đức Giêsu trú ngụ khi lên Giêrusalem (x. Mc 11,11; 14,3). Ngày nay, làng được gọi là El ‘Azariyeh, mộttên phái sinh từ “Ladarô”. - làng của hai chị em cô Mácta và Maria (1): Sự kiện tác giả Ga xác định Bêtania là làng của Mácta và Maria khiến có thể hiểu là các độc giả quen biết hai cô. - là người sau này sẽ xức dầu thơm (2): Đây là một chi tiết rất đặc biệt dành cho việc nhận diện Maria: “là người sau này sẽ xức dầu thơm (dịch sát: “đã xức dầu thơm”) cho Chúa, và lấy tóc lau (dịch sát: “đã lấy tóc lau”) [Xem Bản dịch Nguyễn Thế Thuấn] chân Người. Đây là một lời vừa nhắc lại vừa đón trước: việc xức dầu ở Bêtania chỉ xảy ra ở chương sau (12,1-11), tại sao lại nhắc trước (“đã”) một hành vi chưa được bản văn nói đến? Ở đây, tác giả không đứng trên bình diện truyện kể, nhưng trên bình diện dàn dựng câu truyện, và ngỏ lời trực tiếp với độc giả. Độc giả đã biết Maria đóng vai trò nào vào đầu truyện Thương Khó; vai trò này được ghi nhớ rất rõ trước cả khi TM IV được soạn thảo. Tác giả nại đến ký ức của độc giả nên mới nói về Maria như ở quá khứ (thì quá khứ hoàn thành). Như thế, lời nhắc vận hành trong trí độc giả, còn ở bình diện truyện kể, nó mang sắc thái một lời đón trước. - Thưa Thầy (3): Từ ngữ Kyrios được dùng ở hô-cách (vocative); Kyrie, có thể dịch là “Thưa Ngài”. R.E. Brown cho rằng có thể dịch là “Lạy Chúa”, bởi vì ở đây những người tin đang lên tiếng. Xem 11,21.32. - thêm hai ngày (6): Một vài tác giả gợi ý rằng có mộtsự kết nối với phép lạ thứ hai ở Cana, cũng là mộtphép lạ ban sự sống và xảy ra sau khi Đức Giêsu đã ở lại Samari hai ngày (4,40.43). Có những tác giả khác cho rằng có mộtsự tương đồng với sự phục sinh của Đức Giêsu, vì biến cố này xảy ra vào ngày thứ ba (x. 1 Cr 15,4). Người cũng đã chờ hai ngày trước khi lên Giêrusalem để dự lễ Lều (7,8-10). Với lại ở tiệc cưới Cana, Người đã không đáp ứng ước nguyện của Đức Maria ngay. Không mộtý kiến, mộtnguyện ước nào của loài người, cho dù đúng đắn, lại có thể chỉ cho Người cách xử sự; chỉ có ý muốn của Chúa Cha mới có quyền điều khiển Người mà thôi (4,34; 7,18; 8,29). Người nói và hành động vì vinh quang của Chúa Cha, để thực hiện chương trình cứu độ. Và ơn cứu độ Thiên Chúa ban sẽ được hoàn tất vào thời Ngài đã định; không một ai có thể thúc bách Ngài tiến hành trước giờ. Người ta không thể bắt Đức Giêsu hay ném đá Người bao lâu giờ của Người chưa đến (7,30; 8,20; x. 9,4; 10,17-18). - Thưa Rabbi (8): Đây là lần cuối cùng các môn đệ thưa với Đức Giêsu bằng danh hiệu rabbi. “Rabbi” cũng được dùng ở 9,2. Có thể so sánh để thấy những điểm tương đồng giữa 9,2-5 và 11,8-10. - ánh sáng mặt trời (9): dịch sát là “ánh sáng của thế gian này”. Như thế, công thức này có nghĩa là “mặt trời”. Nhưng trên bình diện thần học, đây là mộtquy chiếu về Đức Giêsu (8,12; 9,5). - đang yên giấc (11): Trong tiếng Híp-ri và Hy Lạp (tiếng Hy Lạp dân gian cũng như hy-ngữ của Bản LXX), “ngủ” là một uyển ngữ (euphemism) để chỉ cái chết (x. Mc 5,39; Cv 20,10). Nhưng các môn đệ lại không hiểu. Trong Kinh Thánh, chết là hậu quả của tội lỗi, và như thế là hình phạt thê thảm nhất (x. St 2,7; Kn 1,15). Tuy nhiên, cái chết mất phần nào tích cách bi đát khi nó đóng ấn mộtcuộc đời hạnh phúc vẫn tiến đi trong tình nghĩa với Thiên Chúa (các tổ phụ: St 25,7; 35,29; vua Đavít: 1 V 2,10; người công chính: Kn 3,1-3). Đức Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, sẽ giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Chính vì thế, trong Tân Ước, những ai chết mà vẫn tin vào Đức Kitô, thì chỉ là yên nghỉ (= ngủ; 1 Tx 4,14; x. Cv 7,60; Mt 27,52), vì Đức Kitô là hoa trái đầu mùa của những ai đã yên giấc (1 Cr 15,20). - được bốn ngày rồi (17): Chi tiết này được ghi nhận để chứng thực là Ladarô đã chết. Có một ý kiến trong giới kinh sư cho rằng linh hồn bay là là gần thân xác trong ba ngày; sau đó thì không còn hy vọng hồi sinh nữa. - Maria thì ngồi ở nhà (20): Các phụ nữ có tang thường ngồi trên nền nhà (x. Ed 6,39-45). Do c. 29, ta đoán là Maria không được báo cho biết là Đức Giêsu đã đến. - Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa (27): Câu này tương tự lời tuyên xưng của Phêrô ở Mt 16,16. - Thầy (28): Từ ngữ Hy Lạp didaskalos tương tự với rabbi ở 1,38 và 20,16. Đức Giêsu sử dụng ở 3,2.10; 13,13.14. - thổn thức trong lòng và xao xuyến (33): “Thổn thức trong lòng” là dạng aorist middle của động từ embrimasthai (x. c. 38). Động từ này được dùng với công thức tô pneumati, “trong tinh thần”, còn ở c. 38, động từ ấy lại được dùng với en heautô, “trong chính mình”. Đây là những công thức Sê-mít để diễn tả các cảm xúc bên trong. Công thức thứ hai, “xao xuyến”, dịch từ cụm từ tarassein heauton. Tarassein hàm ý mộtsự xáo trộn sâu xa; ở đây dùng với đại từ phản hồi, có nghĩa chữ là “bối rối, luống cuống”. Các học giả đã tự hỏi ý nghĩa của các tình cảm này là gì. Có những người thấy đây là cơn giận của Đức Giêsu nhằm chống lại cái chết và tác giả của nó là Satan; có những người khác thì cho rằng đây là cơn giận của Người khi đứng trước sự cứng lòng của người Do Thái. Rất có thể là như thế, bởi vì cái chết và sự cứng lòng đều do Satan; và trong thực tế, đặc biệt trong Mc, Đức Giêsu tỏ ra giận dữ vào lúc Người trừ quỷ, nghĩa là khi Người đối diện với Satan. Tuy nhiên, trong TM IV, ý nghĩa còn sâu sắc hơn. Ngoại trừ một lần động từ tarassein được dùng ở 5,7 để nói về nước hồ bị khuấy động và dùng ở đây, động từ này chỉ được dùng trong khung cảnh cuộc Thương Khó: 2 lần dùng cho Đức Giêsu (12,27; 13,21) và 2 lần cho các môn đệ (14,1.27). Nỗi xao xuyến và sợ hãi của Đức Giêsu, được các TMNL kể lại trong cuộc hấp hối tại vườn Ghếtsêmani, dường như được Ga chuyển vào truyện này và vào cuộc gặp gỡ với người Hy Lạp (12,27). Cái chết của Ladarô được Đức Giêsu thấy như là lời loan báo về cái chết của Người và cuộc chiến thắng nhất thời trên bóng tối. Đối với Ga, cuộc Thương Khó và cái chết của Đức Giêsu chủ yếu là công trình của Satan và cuộc sống lại của Người là chiến thắng trên Satan và cái chết. - Đức Giêsu khóc (35): Đức Giêsu đã có mộtthái độ hết sức nhân bản khi đứng trước nỗi đau của người khác. Người ta hiểu là Đức Giêsu thật sự yêu thương Ladarô. Ở đây tác giả Ga dùng một động từ để chỉ việc Đức Giêsu “khóc” (dakryô, “[để cho] nước mắt tuôn trào”: c. 35) khác với động từ để chỉ người ta “khóc” (klaiô, “khóc một cách tuyệt vọng”: x. cc. 31.33), mà động từ này lại giống với động từ tác giả Lc dùng để nói về việc Đức Giêsu khóc khi nhìn thấy Giêrusalem (x. Lc 19,41: klaiô). Tuy nhiên trong TM Ga, người ta thường chỉ hiểu các lời nói và các cử chỉ của Đức Giêsu theo chiều kích bên ngoài và hời hợt. Nếu Đức Giêsu sắp cho bạn Người sống lại, tại sao Người còn khóc? Như thế, rất có thể ở đây Đức Giêsu khóc, còn vì sự không tin của người Do Thái và thái độ bán tín bán nghi của Mácta (c. 39) và của Maria. - Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại (38): Mộ đứng như cái giếng thì thông dụng hơn mộ nằm ngang. Tảng đá giữ thi hài khỏi bị thú vật xâm phạm. Nơi an táng ở ngoài thành vì nếu không, những người sống có thể bị ô uế do tiếp xúc với thi hài người chết. - Đức Giêsu ngước mắt lên (41): Cử điệu ngước mắt nhìn lên là mộtcách mở đầu tự nhiên cho việc cầu nguyện (x. Lc 18,13; Ga 17,1). - Người kêu lớn tiếng (43): Động từ kraugazein chỉ được dùng 8 lần trong toàn Kinh Thánh Hy Lạp (Bản LXX), mà 6 lần ở trong Ga. Ở Ga 18–19, động từ này được dùng 4 lần để nói về tiếng la hét của đám đông xin đóng đinh Đức Giêsu. Như vậy, dường như có thể rút ra mộtsự tương phản giữa tiếng kêu lớn của đám đông nhằm đưa cái chết đến cho Đức Giêsu và tiếng kêu lớn của Đức Giêsu nhằm đưa sự sống đến cho Ladarô. Thật ra giải thích như thế cũng không bảo đảm, vì ở 12,13, động từ này diễn tả tiếng la của đám đông nhằm hoan hô Đức Giêsu. - chân tay còn quấn vải (44): Có người hỏi là làm thế nào mà bị quấn như thế mà Ladarô vẫn có thể đi được. Câu hỏi này không đúng chỗ vì đặt ra trong mộtbài tường thuật minh nhiên giả thiết có chuyện siêu nhiên. Có thể do mộtlý do thần học mà tác giả đã nhắc đến những thứ khăn liệm. Ở 20,6-7, chúng ta biết rằng các khăn và vải liệm Đức Giêsu đã bị bỏ lại trong mồ, có thể là với ý là Người chẳng bao giờ cần đến chúng nữa, bởi vì Người không bao giờ chết nữa; còn Ladarô thì đi ra với khăn vải liệm, bởi vì anh còn chết lần nữa. Cách giải thích này nhiều gợi ý, nhưng không chắc là tác giả có nghĩ đến số phận tương lai của Ladarô. 4.- Ý nghĩa của bản văn Câu chuyện đưa ta đến gặp một gia đình đặc biệt: chỉ có các chị em mà thôi. Thế rồi có những chi tiết khiến phát sinh những câu hỏi: Tại sao Đức Giêsu cố tình đến chậm? Làm thế nào Mácta và Maria biết là Đức Giêsu đang đến? Làm thế nào Đức Giêsu có thể nói được rằng bất cứ kẻ nào tin vào Người thì sẽ không phải chết bao giờ? Tại sao Đức Giêsu lại khóc khi đã biết rằng Người sắp cho Ladarô trỗi dậy từ cõi chết? * Đức Giêsu biết tin Ladarô đau ốm (1-6) Đức Giêsu đã lui về mạn đông sông Giođan để tránh các đối thủ đang tìm cách bắt Người. Tại đây người ta báo tin cho Người là Ladarô đau ốm; ông này “quê ở Bêtania, làng của hai chị em cô Mácta và Maria” (11,1). Ladarô, em của cô bị đau ốm” (c. 2). Maria được giới thiệu bằng một câu đón trước: “là người sau này đã xức dầu thơm và lấy tóc lau chân Người” (c. 2). Còn Mácta được giới thiệu trước tiên như một người bạn (c. 5), rồi như một môn đệ của Đức Giêsu (“Thưa Ngài, Kyrie”: c. 21). Gia đình không cha mẹ, vợ chồng hoặc con cái này khiến ta có thể hiểu đây là một ám chỉ đến cộng đoàn Kitô hữu, nơi chỉ có các anh em chị em thôi. Cũng như Đức Maria tại tiệc cưới Cana (2,3), các chị của Ladarô đã không trực tiếp bày tỏ mộtlời thỉnh cầu. Các cô không muốn truyền lệnh cho Người bất cứ điều gì. Biết đâu các cô cũng đang nghĩ tới nguy hiểm có thể xảy ra cho Người nếu Người đến gần Giêrusalem (x. 11,8). Các cô chỉ đơn giản báo cho Người biết tình trạng của Ladarô và nhắc Người nhớ rằng anh là bạn Người. Tại Cana, Đức Giêsu đã thực hiện dấu lạ đầu tiên tại tiệc cưới của mộtgia đình bằng hữu; rồi Người đã làm những hành vi quyền lực khác cho những người mà Người không quen biết. Lần này những điểm được nhấn mạnh là tình yêu thương và tình bằng hữu vẫn liên kết Người với các chị em Bêtania (x. 11,3.5.11.36): tình yêu thương và tình bằng hữu diễn tả sự ân cần riêng tư của Đức Giêsu đối với chúng ta là loài người. Người không theo đuổi mộtchương trình vật chất nào, trong đó kết quả thống kê quan trọng hơn những con người. Người coi chúng ta, những con người, là như những nhân vị mà Người quan tâm chiếu cố. Dọc theo bài tường thuật, bằng nhiều cách diễn tả, tác giả cứ nhắc đi nhắc lại là Đức Giêsu không có mặt (cc. 6.17.19.21.32.37). Mục đích là nêu bật tình trạng tăm tối, không hiểu, của dân chúng trước cách xử sự của Đức Giêsu: theo kiểu nhìn của loài người, Đức Giêsu đã phải can thiệp mà cứu chữa Ladarô khi ông này còn sống mới phải. Câu hỏi được đặt ra là làm thế nào giải thích được sự kiện là các bạn của Đức Giêsu cũng chết mà Người không can thiệp gì? Tác giả dùng thêm ba lời đón trước để cho thấy ý nghĩa của cái chết của Ladarô, hoặc cho thấy sự cương quyết của Đức Giêsu và lúc bạn Người chết (cc. 4.11.16). Ba lời đẩy vào tương lai gần như thế nêu bật sự khác biệt trong nhận thức của Đức Giêsu, là người biết rõ chương trình của Thiên Chúa, và các môn đệ, đầy sợ hãi và không hiểu gì. * Đức Giêsu chuẩn bị các môn đệ (7-16) Trước hết, Đức Giêsu chuẩn bị cho các môn đệ đón nhận hành vi quyền lực Người sắp thực hiện. Sau dấu lạ Cana, tác giả TM IV đã nhận định: “Đức Giêsu đã làm dấu lạ đầu tiên này tại Cana miền Galilê và bày tỏ vinh quang của Người. Các môn đệ đã tin vào Người” (2,11). Đức Giêsu hiểu đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô (x. 9,3): “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11,4). “Vinh quang của Thiên Chúa” không phải là mộtvinh dự ích kỷ dâng lên Thiên Chúa, bất kể tình trạng của các thọ tạo. Trong Cựu Ước, mỗi khi Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài thì luôn luôn là để cứu độ loài người, những kẻ Ngài yêu thương. Vinh quang này của Chúa Cha sẽ được thể hiện qua việc tôn vinh Đức Giêsu qua các phép lạ (2,11; 12,41), nhưng nhất là khi Người chịu giương cao trên thập giá, rồi Người chết và sống lại (12,23-32). Khi để cho Ladarô chết, Đức Giêsu muốn bảo chúng ta rằng Người không đến để ngăn chặn cái chết thể lý: công việc của Người không phải là phá vỡ dòng lưu chuyển tự nhiên của đời sống con người. Cuộc sống có một điểm chấm dứt, chứ không kéo dài mãi mãi. Người không đến để làm cho cuộc đời này thành vĩnh cửu, nhưng để ban cho chúng ta một đời sống khác không có cùng tận. Nhất là Người đã tuyên bố cho biết đâu là mục tiêu của chứng bệnh của Ladarô: “để anh em tin” (11,15). Tất cả các hành vi quyền lực của Đức Giêsu đều được thực hiện để Thiên Chúa được rạng rỡ vinh quang, được tỏ mình ra và nên khả thị. Nhờ những hành vi này, chính Thiên Chúa tỏ mình ra, không phải trong bản tính trừu tượng của Ngài, nhưng trong cách cư xử ân cần cụ thể đối với loài người chúng ta. Thiên Chúa tỏ mình ra là “Ta là Đấng Ta là” và cho thấy điều này đúng với chúng ta đến mức độ nào. Trong tư cách là hành vi của Thiên Chúa được Đức Giêsu thực hiện, hành vi quyền lực này cũng mạc khải cho thấy Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, là Đấng mà Chúa Cha đã sai phái đến với chúng ta và nhờ Người mà chúng ta có thể biết Thiên Chúa (x. 1,18). Tương ứng với hành vi tự mạc khải của Đức Giêsu, là hành vi các môn đệ tin vào Người. Hành vi Đức Giêsu làm cho Ladarô phải củng cố các môn đệ trong đức tin và cho họ thấy chính xác hơn họ có thể chờ đợi gì nơi Đấng mà họ đã tin tưởng. Đức Giêsu đã hai lần mời họ đi theo Người về Giuđê (11,7.15). Họ biết điều gì sẽ có thể xảy ra cho Người, và cả cho họ nữa. Họ tín nhiệm nơi Người và trở thành những chứng nhân về cách Đức Giêsu, mặc dù có nguy hiểm đến tính mạng Người, đã làm cho Ladarô đã chết được sống lại. Các môn đệ đã linh cảm là giờ kết thúc bi thương cuộc đời Đức Giêsu đã gần kề: “Người Do Thái hiện đang tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đi tới nơi ấy sao?” (c. 8). Đối với Đức Giêsu, cứu Ladarô sẽ là đi gặp chính bản án tử hình của Người. Vinh quang do phép lạ sẽ là dấu chỉ cuộc tôn vinh Người trên thập giá. Đức Giêsu giải thích cho các môn đệ hiểu rằng tất cả đều nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thuộc về “giờ” của Thiên Chúa. Nhưng dường như Người không đánh tan được nỗi lo lắng, vì Tôma lại đại diện anh em mà nói: “Chúng ta hãy đi để cùng chết với Thầy!” (c. 16). * Đức Giêsu gặp hai chị em (17-38a) Hoàn cảnh của Đức Giêsu tại Bêtania được mô tả bằng hai đặc điểm: Ladarô đã ở trong mồ được bốn ngày và có nhiều người quen biết đến với hai chị em. Theo quan niệm thời đó, chết được ba ngày thì cũng chưa hoàn toàn chết; chỉ đến ngày thứ tư thì sự sống mới hoàn toàn tắt mất. Tác giả muốn chúng ta biết rằng Ladarô đã chết thật rồi. Tất cả những người quen biết gia đình đã ở đó mà đành chịu bất lực khi đứng trước cái chết, và chỉ còn biết an ủi cách yếu ớt (11,19.31). Đức Giêsu chính là Đấng duy nhất có thể thật sự thay đổi điều gì đó trong tình cảnh này và có thể đưa lại sự nâng đỡ đích thực bằng quyền lực thần linh của Người. Mácta đã đến găp Người và nói: “Thưa Ngài, nếu có Ngài ở đây thì em con đã không chết!” (11,21). Dường như hai chị em đẵ lặp đi lặp lại câu này trong những lúc khóc em (x. 11,32.37). Qua lời này, hai chị biểu lộ niềm tin vào Đức Giêsu là Đấng có thể chữa lành những người đau ốm, nhưng cũng biểu lộ nỗi thất vọng là Người đã không đến đúng lúc. Nhưng rồi Mácta đã cho thấy rằng chị tin vào việc sống lại của kẻ chết. Khi bày tỏ niềm tin vào việc kẻ chết sẽ sống lại trong tương lai cánh chung, Mácta đã chứng tỏ là một môn đệ và đại diện cho các Kitô hữu thế kỷ đầu tiên đang tập sống niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh trong hiện tại. Chỉ có tin vào Đức Giêsu, người ta mới có thể vượt qua sự chết mà vào sự sống. Nhưng Đức Giêsu cho các chị thấy rằng sự sống lại là do Người ban: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11,25-26). Cho đến nay, Đức Giêsu đã tự xưng mình là bánh, nước, ánh sáng và người mục tử nhân hậu; Người đã quy chiếu về chính mình Người những thực tại mà nhất thiết cuộc sống trần thế của chúng ta phải lệ thuộc vào. Nay cũng bằng cách đó, Người khẳng định rằng chúng ta lệ thuộc vào Người để được sống muôn đời. Nơi Người, Thiên Chúa hiện diện cho chúng ta (“Ta là Đấng Ta là”) như là Đấng lôi kéo chúng ta khỏi cái chết và đưa chúng ta vào trong cuộc sống bất tử của Người. Cuộc phục sinh giả thiết có cái chết và có nghĩa là trỗi dậy thoát khỏi tình trạng nằm dài cứng ngắc của cái chết; sống là kết hợp với Thiên Chúa. Hai điều này được Đức Giêsu ban cho chúng ta và được liên kết với nhau trong đức tin. Đức Giêsu ban sự sống này cho ai tin vào Người. Sự sống được Đức Giêsu ban đây phải đi qua cái chết, nhưng không bị dập tắt. Sự kết hợp với Thiên Chúa do Đức Giêsu ban cho không biết đến kết thúc hoặc tình trạng hoàng hôn. Trong tình cảnh này Đức Giêsu đã khóc, vì thương Ladarô, nhưng cũng còn là vì thái độ không tin và thái độ nửa tin nửa ngờ của Mácta (c. 39) và của Maria. Điều mà Đức Giêsu làm cho Ladarô là mộtdấu chỉ (dấu lạ). Ladarô đã chết, Đức Giêsu gọi anh ra khỏi mồ, nhưng đưa anh trở lại với cuộc sống trần thế, từ đó anh lại đi tới cái chết. Bằng hành vi này, Đức Giêsu chứng minh cho thấy là cái chết không phải là một giới hạn đối với Người, nhưng Người có quyền trên cái chết. Tuy nhiên, ân ban đích thực của Người không phải là mộtcuộc sống trần thế được kéo dài mãi mãi, mà là cuộc sống trong sự hiệp thông vĩnh cửu với Thiên Chúa. Đức Giêsu muốn đưa cả Mácta, cũng như các môn đệ Người, đến với đức tin. Cô hiểu, cô tin và nói lên mộtlời tuyên xưng đức tin mà chúng ta chỉ gặp ở cuối TM Ga (20,28.31) và là lời được hàm chứa trong lời tuyên bố của Phêrô (6,69) và của anh mù được chữa lành (9,38). Với cô, Đức Giêsu đạt mục tiêu mà công trình của Người đã nhắm tới trước: mắt của cô đã mở ra. Mácta hoàn toàn ở thế ngược lại với các đối thủ của Đức Giêsu, những người đã trách Người là nói phạm thượng chống lại Thiên Chúa. Cô nhận biết Người là Đấng Thiên Chúa dùng để thực hiện công trình cứu độ cho loài người (“Đức Kitô”) và là Đấng sống trong mộtsự hiệp thông không có khởi đầu cũng không có kết thúc với Thiên Chúa, trong sự bình đẳng tuyệt đối với Người (“Con Thiên Chúa”). Và cũng như Đức Giêsu, Mácta nêu bật tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha: Người đã đến trong trần gian bởi vì được Chúa Cha sai phái đi; đàng sau tất cả những gì Người làm, chính là Chúa Cha làm (x. 11,42; 16,28). * Đức Giêsu cho Ladarô sống lại (38b-44) Đức Giêsu bảo người ta dẫn Người ra mộ Ladarô. Hai người chị và nhiều người khác đã đến để săn sóc hai cô cùng đi với Người. Chung quanh Người, vang lên tiếng than khóc của đoàn người bất lực trước sức mạnh tàn nhẫn của cái chết. Có hai cách khóc. Có cách khóc của những người chắc chắn rằng cái chết là sự chấm dứt mọi sự (klaiô). Cũng có cách Đức Giêsu khóc (dakryô) tại mộ Ladarô, bình lặng và chứng tỏ con người có phẩm cách. Mất một người thân là điều rất đau lòng; nhưng sẽ rất là ích kỷ nếu muốn giữ người ấy lại cho riêng mình, trong khi người đó đang đi vào một cuộc sống tốt đẹp hơn trước. Đức Giêsu cho cất tảng đá che mộ đi. Tảng đá có đó để ngăn cách thế giới người sống với thế giới kẻ chết, nhưng đối với những ai tin vào Đức Giêsu, sự chia cách này không còn nữa. Thế rồi Người quay hướng về Chúa Cha khi cầu nguyện, đây là điều Người chưa bao giờ làm trong những hành vi quyền lực trước đây. Đây là lời cầu nguyện đầu tiên của Người được tác giả Ga nhắc lại (x. 12,27-28; 17,1-26). Trước tiên, Người tạ ơn Chúa Cha vì Ngài đã lắng nghe lời Người. Về phần Người, Đức Giêsu tuyệt đối chắc chắn về sự kết hợp của Người với Chúa Cha, nên không cần phải chứng minh cho Người bằng mộthành vi quyền lực. Nhưng điều mà Người nhấn mạnh là để cho người ta tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, Đức Giêsu mới có thể thực hiện công trình của Người hầu cứu độ loài người. Ở đây, c. 42 là lời nhắc lại để nêu bật tư cách Đức Giêsu là sứ giả Chúa Cha sai phái: Đức Giêsu bình luận các lời nói của chính Người để giúp đám đông hiểu rằng Người là sứ giả của Thiên Chúa. Đối với Ladarô, người ta phải lăn tảng đá và cởi khăn và vải cho anh, còn trong việc Đức Giêsu sống lại, các phụ nữ chỉ có thể chứng kiến sự kiện: tảng đá đã được lăn ra một bên, và khăn liệm đã được đặt riêng ra (20,1-7); các thiên thần có mặt chỉ là để giúp các môn đệ ý thức về sự kiện. * Kết luận: Ghi chú về đức tin (45) Tất cả mọi người trong chuyện đều chứng tỏ họ thiếu đức tin cách nào đó. Nay “có nhiều kẻ đã tin vào Người” (c. 45). Trọng tâm của đức tin, cũng như lâu nay, là tương quan của Đức Giêsu với Chúa Cha. Loài người phải tin rằng Chúa Cha đã sai phái Đức Giêsu và đàng sau tất cả những gì Đức Giêsu thực hiện và nhận là của mình, chính là Chúa Cha. Cả hành vi quyền lực to lớn này của Đức Giêsu cũng là mộttrợ giúp niềm tin. + Kết luận Là con người, chúng ta sẽ phải chết. Mỗi người, từ thuở bắt đầu cuộc hiện sinh, đều đi về cái chết. Đứng trước cái chết, chúng ta cảm nhận mộtgiới hạn tuyệt đối và mộtsự bất lực hoàn toàn của chúng ta. Chúng ta có thể trì hoãn cái chết, chứ không thể tránh nó được. Và chúng ta không thể nào đưa được mộtngười đã chết trở lại với cuộc sống được. Trái lại, Đức Giêsu đã làm cho cái chết trở thành nhất thời và tạm bợ giống như giấc ngủ. Người sẽ làm cho chúng ta trỗi dậy khỏi cái chết và ban cho chúng ta sự sống đời đời. Muốn thế, chúng ta phải tránh thái độ cứng lòng của người Do Thái, cả thái độ nửa tin nửa ngờ của hai chị em Mácta và Maria, để tin hoàn toàn vào Đức Giêsu. 5.- Gợi ý suy niệm 1. Câu truyện chúng ta đọc hôm nay cho thấy là mục tiêu của Con Thiên Chúa nhập thể không phải là giải quyết những vấn đề trước mắt, như cái ăn cái mặc, các chứng bệnh. Người có làm các phép lạ để giải quyết các vấn đề đó, nhưng để các phép lạ đó trở thành dấu chỉ đưa người ta đến đức tin. Chỉ khi người ta tin vào Người, các vấn đề ấy mới được giải quyết tận căn, vì Người sẽ ban cho người ta sự sống đời đời. 2. Khi hình dung ra rằng tôi cũng đang đi trên con đường đưa đến cái chết, tức khắc tôi nhận ra được giá trị của mỗi sự việc tôi đang đảm nhận, mỗi sự vật tôi đang sở hữu. Tôi biết điều gì là quan trọng thật, cái gì là tương đối. Tôi hiểu rằng tôi phải tìm chỗ tựa bảo đảm đưa tôi đến cuộc sống vĩnh cửu. Hôm nay điểm tựa ấy được giới thiệu: Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa. Nhờ tin vào Người, tôi nhận thấy cái chết không còn là mộtsức mạnh bách chiến bách thắng, mộtđịnh mệnh bi đát mà con người phải gánh chịu nữa. Cái chết lúc đó chỉ có tính cách tạm thời, như mộtcửa ngõ đưa tôi vào cuộc sống vĩnh cửu. 3. Ngày hôm nay, chúng ta có thể ghi nhận biết bao dấu chỉ cho thấy sự chết đang tìm cách lan tràn, nhưng sự sống cũng vẫn mạnh mẽ vươn lên. Dựa vào mình, sống theo tính ích kỷ và kiêu ngạo, con người sẽ rơi vào thất vọng khi trải nghiệm tất cả những giới hạn của thân phận thọ tạo. Đức Giêsu mời gọi chúng ta vượt quá những giới hạn này, nhờ có Thánh Thần chan hòa trong lòng, bằng cách lắng nghe giáo huấn của Người và đưa ra thực hành, bằng cách sống và chết như Người. 4. Sự can thiệp của Đức Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là mộtĐấng Vô Biên xa vời, không hề quan tâm đến các thọ tạo của Người. Thiên Chúa đã nhập thể để làm người, mang mộttrái tim loài người. Người có thể cảm động, xao xuyến. Người yêu thương các bạn hữu của Người. Nhưng Người cũng bung quyền năng của Người ra để cho Ladarô sống lại, hầu chỉ cho chúng ta con đường sống thật. 5. Đức Giêsu đã cho Ladarô sống lại, vì Người là Lời tạo dựng của Thiên Chúa. Thế nhưng một ngày kia, Người sẽ chết, để rồi các đối thủ có thể chế nhạo đủ cách. Nhưng đó là vì Đức Giêsu không muốn cứu lấy mộtmình Người. Khi đảm nhận thân phận con người chúng ta cho đến chết, Lời ban sự sống của Người không còn ở bên ngoài chúng ta nữa. Người thắng cái chết bằng cách đi xuyên qua nó. Nhờ đó, Người cứu được tất cả mọi người. 49. Tôi là sự sống lại--Lm. Luigi Gonzaga Đặng Quang TiếnPhép lạ làm cho Lazarô sống lại là “dấu hiệu” cuối cùng trong một loại các dấu hiệu được ghi lại trong 12 chương đầu của Tin mừng Gioan. Biến cố nầy tiên báo sự chết và sống lại của Chúa Giêsu mà Người sắp thực hiện tại Giêrusalem. Có thể phân chia chương 11 như sau: – Lazarô bệnh và bàn luận giữa Chúa Giêsu và các môn đệ của Người (11,1-16); – Chúa Giêsu đến Bêtania, đối thoại với Martha (11,17-27); – Chúa Giêsu đối thoại với Maria và làm cho Lazarô sống lại (11,28-46); – Quyết định giết Chúa Giêsu. Lễ Vượt Qua cuối cùng (11,47-57). Trong phạm vi bài nầy, chúng ta chỉ bàn đến đoạn 11,17-27. Tin Lazarô bệnh đã đến với Chúa Giêsu (c. 3), nhưng Người không đi ngay. Người chỉ đến Bêtania bốn ngày sau khi ông đã được an táng. Đoạn 11,17-27 có thể chia thành hai phần: – Chúa Giêsu đến Bêtania (11,17-20); – Đối thoại giữa Chúa Giêsu và Martha (11,21-27). Chúa Giêsu đến Bêtania (11,17-20). Những chỉ dẫn không gian và thời gian mang một ý nghĩa nào đó. Lazarô đã được an táng bốn ngày (c. 17). “Bốn ngày ở trong mồ” ngụ ý Lazarô đã chết thật. Theo phong tục chôn cất của người do thái, người chết được an táng ngay trong ngày người ấy qua đời. Theo niềm tin của họ, tinh thần của người chết có thể trở lại thân xác trong vòng ba ngày. Nếu qua ba ngày người chết không chỗi dậy, có thể tin chắc là người ấy đã chết thật. Bởi thế, Martha hết hy vọng và nói với Chúa Giêsu là “đã bốn ngày rồi” (11,39). “Bêtania gần Giêrusalem” hàm ý là sau sự việc tại Bêtania, Chúa Giêsu sẽ lên Giêrusalem. Nơi đây, Chúa Giêsu sẽ thực hiện chính sự chết và sống lại của Người. Những gì xảy ra tại Bêtania là sự tiên báo. Đối thoại với Martha về sự sống lại (11,21-27). Có thể chia cuộc đối thoại nầy thành thành hai phần: – Niềm tin ban đầu của Martha (cc. 21-24); – Chúa Giêsu mặc khải Người là sự sống lại và sự sống, và Martha tuyên xưng đức tin (cc. 25-27). Mỗi đoạn khởi đầu bằng eipen (c. 21.25); trong khi để đáp lại lời của người đối thoại, Gioan dùng cũng động từ legō ở thì hiện tại (cc. 23.24.27). Martha là người mở đầu và cũng là người kết thúc cuộc đối thoại (cc. 17 và 27). Hai từ đối nghịch nhau “chết” và sống lại” (“sự sống”) đặc trưng cho đoạn nầy. Niềm tin ban đầu của Martha (cc. 21-24). Lazarô là trung tâm của cuộc đối thoại nầy. Qua cuộc đối thoại Martha để cho thấy bà nghĩ gì về sự sống lại. Trước tiên Martha đặt ra một câu điều kiện không có thực là Lazarô “lẽ ra không chết” nếu như Chúa Giêsu đã có mặt ở đó (c. 21). Lazarô đã chết vì Chúa Giêsu đã không có mặt ở Bêtania trước đó bốn ngày. Maria cũng lập lại câu nói nầy (c. 32). Martha và Maria đặt niềm tin vào sự hiện diện hữu hình của Chúa Giêsu, người như là một sát thủ của bệnh tật và chết chóc. Trong lời tiếp theo (c. 22) Martha cho thấy Chúa Giêsu có thể cầu xin cùng Thiên Chúa cho Lazarô sống lại (x. 9,31). Bà tin mạnh mẽ vào tương quan đặc biệt của Chúa Giêsu với Thiên Chúa. Chúa Giêsu sẽ nói nhiều đến hiệu quả của lời cầu xin, aiteō, qua trung gian của Người, “nhân danh Người” (14,13.14; 15,7; 15,16; 16,13.24). Sau cùng, khi Chúa Giêsu nói là Lazarô sẽ sống lại, anistēmi (cc. 23.24), Martha cho thấy bà tin vào sự sống lại như người do thái tin là kẻ chết sẽ sống lại “trong ngày sau hết” (c. 24). Đến lúc nầy Martha như đại diện cho niềm tin của dân chúng về sự sống lại. Chúa Giêsu sẽ dẫn bà đến đức tin vào Người. Sang phần tiếp theo (cc. 25-27), Chúa Giêsu là trung tâm của cuộc đối thoại. Ngôi thứ nhất “tôi” của Chúa Giêsu chi phối phần nầy. Động từ pisteuō “tin” (cc. 25.26 (2x).27) được dùng trong mỗi câu, và có đối tượng là Chúa Giêsu. “Tin vào” Chúa Giêsu như là điều kiện dứt khoát để không phải chết. “Tôi là sự sống lại và sự sống” (c. 25). Trong tin mừng Gioan, Chúa Giêsu dùng nhiều lần “Tôi là…” để trình bày về chính mình (6,35.48.51; 8,12; 10,7…). Đây là cách tuyên bố long trọng và cho biết Người cũng có quyền làm cho người chết sống lại và ban sự sống như Thiên Chúa (x. 5,21.25.26). Hai mệnh đề tiếp theo song đối với nhau “Ai tin vào Tôi…”, “Mọi người sống và tin vào Tôi…” (c. 25b và 26) có tính cách phổ quát và áp dụng cho mọi người. Cấu trúc của ba mệnh trên làm nổi bật nội dung: “Tôi là sự sống lại và sự sống” (c. 25a) – “Ai tin vào Tôi thì dẫu chết cũng sẽ sống” (c. 25b) – “Mọi người sống và tin vào Tôi sẽ không phải chết bao giờ” (c. 26). “Tôi” của Chúa Giêsu là Đấng phải đặt niềm tin vào. Từ Chúa Giêsu phát sinh “sự sống lại và sự sống”. Niềm tin nầy dẫn đến kết quả là có thể loại trừ hoàn toàn sự chết. Nếu đã chết sẽ sống lại, nếu đang sống khỏi phải chết. Vậy “tin vào Tôi” là điều kiện duy nhất để có sự sống lại và sự sống trong chính mình. “Sự sống”, zōē, nơi Chúa Giêsu (c. 25; 5,26) là sự sống của Thiên Chúa (1,4), sự sống vĩnh cửu (3,15.16.36), sự sống đối nghịch với sự chết đời đời (5,24). Người tin vào Chúa Giêsu sẽ được Người dẫn vào sự sống thần linh, ngang qua sự sống lại. Câu hỏi “Con có tin như thế không?” trong mạch văn được hiểu là nhắm đến cái chết của Lazarô; đồng thời thông tỏ cho Martha biết bà phải tin như thế nào. Như thế Martha không phải chờ sự sống lại của em mình vào ngày sau hết, nhưng Chúa Giêsu có thể thực hiện ngay bây giờ nếu tin vào Người. Martha tuyên xưng đức tin (c. 27). Lời tuyên xưng của Martha bao gồm: thiên sai tính của Người “Đấng Kitô”, nguồn gốc thần linh của Người “Con Thiên Chúa” và việc Người hoàn tất sự trông đợi, “Đấng phải đến trong thế gian”. Mở đầu lời tuyên xưng, Martha dùng cụm từ Nai, kyrie, “Vâng, lạy Chúa/thưa Ngài”. Cụm từ nầy chỉ thấy trong lời đáp của Phêrô khi Chúa Giêsu hỏi ông có yêu mến Người hơn kẻ khác không (21,15-16). Như Phêrô, Martha muốn tiến sâu hơn trong đức tin, muốn gắn bó hơn với Đấng bà tuyên xưng là Con Thiên Chúa. Thì hoàn thành (perfect) của động từ pisteuō, “tin”, diễn tả sự kéo dài và thường xuyên của hành vi tin. Martha đã tin, vẫn tin và còn tin sâu hơn nữa. Tước hiệu “Kitô” xuất hiện ở đây rất có ý nghĩa. Trước câu 11,27 nầy, Chúa Giêsu có phải là Đấng Kitô hay không là thắc mắc của nhiều hạng người (x. 1,20.25; 3,28; 4,29, 7,26.31.41.42; 10,24). Martha là người đầu tiên tuyên xưng Chúa Giêsu là Đấng Kitô; đó như câu trả lời dứt khoát cho những thắc mắc trên. Tước hiệu Kitô nầy gắn liền Chúa Giêsu với Thiên Chúa với tư cách là “Con Thiên Chúa”, và với nhân loại như là “Đấng (Thiên Chúa sai đến) đang đến trong thế gian”. Khi Chúa Giêsu đến, dân chúng nhận ra Người như một ngôn sứ (6,14), vị vua của Israel (1,49; 12,13); trong khi đó, Martha tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Mục đích của việc Người đến là để cứu độ thế gian (3,17), phán xét (8,26; 9,39) và làm chứng cho sự thật (18,37). Ở đây Chúa đến trong thế gian như là sự sống lại và sự sống. Ai tin vào Người sẽ được sống. Sự chết không thể hủy diệt được người tin vào Chúa Giêsu và kết hiệp liên lỉ với Người, vì Người chính là sự Sống Lại và Sự Sống của họ. 50. Chúa Nhật 5 Mùa Chay--Lm. Inhaxio Hồ ThôngPhụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật V Mùa Chay hôm nay nói về sự sống lại, về đời sống mới. Ed 37: 12-14 Qua một thị kiến về những bộ xương khô, ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo cho những người lưu đày ở Ba-by-lon biết rằng sẽ đến ngày Thiên Chúa ra tay giải thoát họ, và cuộc giải thoát này sẽ được sánh ví như cuộc tái sinh. Rm 8: 8-11 Trong Bài Đọc II, thánh Phao-lô công bố: “Nếu Thánh Thần của Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại ở trong anh em, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su Ki-tô từ cõi chết sống lại cũng cho xác phàm hay chết của anh em được sống”. Ga 11: 1-45 Trong Tin Mừng, Đức Giê-su nói với cô Mác-ta: “Thầy là sự sống lại và là sự sống”. Để minh chứng điều đó, Ngài cho anh La-za-rô sống lại sau khi anh đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi. BÀI ĐỌC I (Ed 37: 12-14) Như ngôn sứ Giê-rê-mi-a, ngôn sứ Ê-dê-ki-en là tư tế trước khi được Thiên Chúa kêu gọi làm ngôn sứ của Ngài. Ông là vị ngôn sứ thứ ba trong bốn Đại Ngôn Sứ và là dung mạo vĩ đại nhất của Do Thái Giáo trong suốt thời lưu đày, vì thế được gọi là “cha của Do thái giáo”. Ông là vị ngôn sứ duy nhất trong số các ngôn sứ đã lãnh nhận ơn gọi ngôn sứ ngoài đất Ít-ra-en, ở Ba-by-lon. Ông kết hợp mật thiết tinh thần tư tế và tinh thần ngôn sứ. Ê-dê-ki-en đã trải qua những thời điểm bi thảm nhất, đó là thành thánh Giê-ru-sa-lem bị đạo quân Ba-by-lon xâm chiếm vào năm 598. Ông thuộc vào đoàn người đầu tiên bị dẫn đi lưu đày tại Ba-by-lon. Ông chia sẻ cuộc sống lưu đày với dân Ít-ra-en tại một thị trấn nhỏ, không xa Ba-by-lon, được gọi là Tel-Aviv (tên mà quốc gia Do thái hiện nay đặt cho thủ đô của họ để tưởng nhớ đến vị ngôn sứ này, người đã tiên báo “sự hồi sinh” của dân Ít-ra-en) và ông đã qua đời ở đó vào năm 571. 1. Hoàn cảnh của dân Ít-ra-en vào thời Ê-dê-ki-en Ngôn sứ Ê-dê-ki-en đã lên án những bất trung của dân Chúa và loan báo sự trừng phạt sẽ giáng xuống trên Giê-ru-sa-lem. Nhưng khi những bất hạnh bất ngờ xảy đến, vị ngôn sứ loan báo thời kỳ Thiên Chúa xót thương. Thiên Chúa sẽ khai đường mở lối cho đoàn người lưu đày được trở về quê cha đất tổ. Cuộc giải thoát này sẽ như một cuộc tái sinh, một cuộc tạo dựng mới. Lời văn đầy những hình tượng. 2. Hai lời hứa của Thiên Chúa Trong thị kiến, vị ngôn sứ được Thiên Chúa dẫn đưa vào một thung lũng đầy những bộ xương khô (37: 1-2). Thị kiến này mô tả hoàn cảnh tù đày của dân Ít-ra-en tại Ba-by-lon được sánh ví với những bộ xương khô: “Hỡi con người, các xương đó chính là toàn thể nhà Ít-ra-en”, và niềm hy vọng được cứu thoát của họ đã tiêu tan: “Xương cốt chúng tôi đã khô, hy vọng của chúng tôi đã tiêu tan, chúng tôi đã rồi đời” (37: 11). Trong hoàn cảnh bi thương tuyệt vọng đó, qua vị ngôn sứ của mình, Thiên Chúa hứa với dân Ngài hai điều. Trước tiên, Thiên Chúa hứa sẽ cứu họ khỏi cảnh từ đày và sẽ dẫn đưa họ trở về quê cha đất tổ: “Hỡi dân Ta, Ta sắp mở huyệt cho các ngươi. Ta sẽ đem các ngươi lên khỏi đó, và đưa ngươi về đất Ít-ra-en” (37: 12). Khi làm như vậy, Thiên Chúa cho thấy Ngài vẫn trung tín với Giao Ước của Ngài: “Các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa, khi Ta mở huyệt cho các ngươi và đưa các ngươi lên khỏi huyệt, hỡi dân Ta” (37: 13). Thứ nữa, Thiên Chúa hứa ban thần khí của Ngài, nhờ hơi thở sáng tạo, những kẻ lưu đày bất hạnh sẽ được tái tạo, có thể nói, được hoàn lại cho họ cuộc sống như trước đây trên quê cha đất tổ: “Ta sẽ đặt thần khí của Ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh. Ta sẽ cho các ngươi định cư trên đất của các ngươi”. Lời hứa thứ hai cũng kết thúc với lời quả quyết trung thành của Thiên Chúa với Giao Ước: “Bấy giờ các ngươi sẽ biết rằng Ta là Đức Chúa, Ta đã nói là Ta làm” (37: 14). 3. Phục hưng một dân tộc Lời Thiên Chúa hứa thứ nhất bắt đầu và kết thúc với lời kêu gọi gửi đến dân Ít-ra-en: “Hỡi dân Ta”. Lời Thiên Chúa hứa thứ hai được gửi đến toàn thể dân Ít-ra-en chứ không cá nhân. Như vậy, sấm ngôn này loan báo sự phục hưng của một đất nước, sự canh tân của một dân tộc, chứ không sự phục sinh của cá nhân. Quan niệm về sự phục sinh của cá nhân như thế vào thời của vị ngôn sứ Ê-dê-ki-en không thể nào nghĩ tưởng được. Sẽ phải chờ đợi đến thời kỳ Ma-ca-bê (giữa thế kỷ hai tCn) khi đó niềm hy vọng vào sự phục sinh cá nhân được phát biểu rất rõ nét. Niềm hy vọng này đã nâng đỡ các vị tử đạo khi các ngài nhất quyết trung thành niềm tin của mình, dù phải chịu các cực hình: “Vua là một tên hung thần, vua khai trừ chúng tôi ra khỏi cuộc đời hiện tại, nhưng bởi lẽ chúng tôi chết vì Luật pháp của vua vũ trụ, nên Người sẽ cho chúng tôi sống lại để hưởng sự sống đời đời” (2Mcb 7: 9). Louis Monloubou mời gọi người tín hữu hiện tại hóa thị kiến này vào trong lịch sử cuộc đời mình để khám phá sự hiện diện cứu độ của Thiên Chúa: “Ngày nay dân Thiên Chúa phải kinh qua những giải thoát mà Thiên Chúa thực hiện trong lịch sử của cuộc đời mình, thậm chí trong chính thân xác của mình; ngõ hầu họ hiểu hơn, và rốt cuộc hiểu hơn ai thực sự là Thiên Chúa của mình, đối tượng niềm tin của mình không là một bóng ma nào đó, nhưng Đức Chúa, Đấng Cứu Độ. Cuối cùng ngày nay, Thiên Chúa chúng ta luôn luôn là Thiên Chúa nói với dân Ngài, khuyến khích họ, ở bên cạnh họ, như bạn đồng hành thân thiết, Đấng cứu độ trung tín và có hiệu quả”. BÀI ĐỌC II (Rm 8: 8-11) Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô họa nên một bức tranh tăm tối về nhân loại tội lỗi không thể tự sức mình giải thoát mình khỏi tội lỗi, vì thế cần phải đặt trọn niềm tin tưởng vào sự can thiệp của Thiên Chúa. Sau đó, thánh nhân mô tả đầy cảm xúc cuộc sống mới của người Ki-tô hữu: cuộc sống trong ân sủng, nghĩa là cuộc sống được Thần Khí tác động chứ không còn chịu xác thịt chi phối nữa. Đoạn văn hôm nay được trích từ chương 8, chương dâng hiến một sự bình an và niềm vui. 1. Xác thịt và Thần Khí Thánh Phao-lô thích vận dụng những cặp đối nghịch: luật và đức tin, xác thịt và thần khí, con người cũ và con người mới, chế độ lề luật và chế độ ân sủng, vân vân. Thánh nhân ban cho từ ngữ “xác thịt” một nét nghĩa tiêu cực không được gặp thấy trong Cựu Ước. Qua từ ngữ xác thịt, Thánh Kinh chỉ toàn bộ con người được Thiên Chúa sáng tạo, vì thế, xác thịt thực chất không thể nào là xấu được. Ngôi Lời sẽ đảm nhận xác thịt và “làm người”. Khi ngôn sứ Ê-dê-ki-en loan báo rằng Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ít-ra-en “một trái tim bằng thịt thay cho trái tim bằng đá” ông ban cho từ ngữ “xác thịt” tất cả sự cao quý của nó. Chắc chắn ở nơi nhân tính có một khía cạnh địa giới mà từ ngữ xác thịt gợi lên, do đó đối lập với thiên giới, thế giới thần linh. Trong cặp đối nghịch xác thịt-thần khí, thánh nhân được gợi hứng từ cặp đối nghịch: địa giới-thiên giới, theo quan niệm mang đậm nét Do thái, chứ không theo quan niệm nhị nguyên Hy lạp: thân xác-linh hồn. Tuy nhiên, thánh nhân xem bản tính địa giới là bản tính xấu, được ghi dấu bởi tội lỗi. 2. Sống theo Thần Khí Dù vẫn còn ở trong sự đối nghịch giữa xác thịt và thần khí, kinh nghiệm của người Ki-tô hữu chứng nhận rằng tác động Thần Khí biến đổi tận bên trong con người. Thánh nhân ngỏ lời với những người lãnh bí tích Thánh Tẩy: “Anh em không bị tính xác thịt chi phối, mà được Thần Khí chi phối, bởi vì Thần Khí của Thiên Chúa ngự trong anh em” (8: 9). Và thánh nhân chứng minh cho họ thấy việc phục sinh thân xác là tất yếu. Đây là nét độc đáo của đoạn văn này. 3. Thần Khí là sự sống và là nguyên lý của sự sống lại Do tội lỗi, thân xác của chúng ta tất yếu phải chết. Như ở nơi khác, thánh nhân đồng hóa thân xác phải chết với “con người cũ” phải bị diệt vong. Ấy vậy, Thần Khí ở nơi chúng ta là Sự Sống – chính ở đây mà quan niệm Do thái về một con người toàn diện, bất khả phân thân xác và thần thiêng, đóng một vai trò trong lập luận – Thần Khí này chắc chắn biến đổi thân xác chúng ta, thân xác sẽ trở thành “thần thiêng” và bất khả hư hoại. Đây là điều thánh nhân đã nói với các tín hữu Cô-rin-tô rồi: “Việc kẻ chết sống lại cũng vậy: gieo xuống thì hư nát, mà trỗi dậy thì bất diệt, gieo xuống thì hèn hạ, mà trỗi dậy thì vinh quang; gieo xuống thì yếu đuối, mà trỗi dậy thì mạnh mẽ, gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà trỗi dậy là thân thể có thần khí. Nếu có thân thể có sinh khí, thì cũng có thân thể có thần khí” (1Cr 15: 42-44). Thánh Phao-lô là chứng nhân của Đấng Phục Sinh. Ánh sáng đã bao phủ thánh nhân trên đường đi Đa-mát và đã soi sáng cuộc đời ngài. Ở trung tâm những khai triển thần học của thánh nhân, chúng ta không ngừng gặp lại biến cố then chốt: sự kiện Phục Sinh. “Sự phục sinh của Đức Giê-su cấu tạo nên bước khởi đầu của cuộc tạo dựng mới mà chúng ta được dự phần vào nhờ đức tin. Từ đó phải rút ra những hiệu quả: trong đức ái, chúng ta sống như những con người được phục sinh; trong đức cậy, chúng ta đảm bảo sự phục sinh tương lai của chúng ta” (Karl Gatzweiler). TIN MỪNG (Ga 11: 1-45) Bài trình thuật: “Chúa Giê-su cho anh La-da-rô sống lại”, là bài trình thuật về dấu lạ dài nhất trong Tin Mừng Gioan, qua dấu lạ này, Đức Giê-su kín đáo loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài. Dấu lạ này cũng là lời cảnh báo tối hậu mà Đức Giêsu gửi đến cho những ai không chịu mở lòng ra mà tin vào Ngài. Vả lại, lời mời gọi tin vào Ngài là một chủ đề chạy xuyên suốt toàn bộ câu chuyện này. Sự căng thẳng giữa Đức Giê-su và dân Ngài, vốn hình thành nên hậu cảnh của Tin Mừng Gioan, không bao giờ đạt đến cao độ như thế ở nơi câu chuyện này. – Dẫn nhập (11: 1-5) Ngay từ đầu câu chuyện, người kể chuyện giới thiệu gia đình của ba chị em: cô Mác-ta, cô Ma-ri-a và anh La-da-rô quê ở Bê-ta-ni-a, một gia đình Chúa Giê-su yêu quý (11: 5), và hoàn cảnh mà họ gặp phải: “Anh La-da-rô, người bị đau nặng” (11: 2). Chỉ vừa mới đây, Chúa Giê-su cùng với các môn đệ “lánh sang bên kia sông Gio-đan, đến chỗ trước kia ông Gio-an đã làm phép rửa và Người đã ở lại đó” (10: 40) để tránh dân chúng ném đá Ngài, như các môn đệ nhắc cho Ngài (11: 9). Chính ở nơi đây mà hai chị em cô Mác-ta và cô Ma-ri-a nhờ người đến báo tin cho Đức Giê-su về bệnh tình của anh La-da-rô, em trai của hai cô: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng” (11: 3). Đức Giê-su trả lời: “Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này Con Thiên Chúa được tôn vinh” (11: 4). Như thường xảy ra trong Tin Mừng Gioan, lời Đức Giê-su chứa đựng hai nghĩa. Quả thật, Đức Giê-su sẽ “được tôn vinh” qua dấu lạ mà Ngài sắp thực hiện, nhưng dấu lạ này sẽ dẫn Ngài đến cái chết của chính mình, vì Ngài sẽ khiến kẻ thù của Ngài công phẫn đến tận xương tủy. Đối với Tin Mừng Gioan, vinh quang của Đức Giê-su rực sáng nhất ở nơi cuộc Tử Nạn của Ngài. Thánh Giá là cửa ngõ đưa Ngài trở về nhà Cha Ngài. Tin Mừng Gioan sẽ làm sáng tỏ sự kiện Thiên Chúa đã đặt “vinh quang” của chính mình vào trong sứ mạng cứu độ con người, vì Ngài đã đặt vào đây tất cả tình yêu của Ngài. 1. Cuộc đối thoại của Chúa Giê-su với các môn đệ (11: 6-16) Khi được tin báo, thay vì khởi hành đến Bê-ta-ni-a ngay, Đức Giê-su lại trì hoãn. Sau hai ngày, Ngài mới tuyên bố: “Nào chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê” (11: 7). Như vậy, Đức Giê-su đến Bê-ta-ni-a chỉ sau khi anh La-da-rô đã chết và mai táng trong mồ được bốn ngày rồi. Lý do của việc trì hoãn này chắc chắn là Ngài muốn gây ấn tượng ở nơi hành động của Ngài khi hoàn sinh người chết sau khi đã chết và mai táng trong mồ. Các môn đệ lưu ý Thầy về hoàn cảnh nguy hiểm: “Thưa Thầy, mới đây người Do thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy còn đến đó sao?” (11: 8). Trong câu chuyện này, độc giả được loan báo rằng việc Ngài ra đi không nhằm bất kỳ lý do thuần túy nhân loại, nhưng mặc một ý nghĩa cao siêu, tức là bày tỏ vinh quang Thiên Chúa. Tuy nhiên, các môn đệ chưa ngộ được ý nghĩa cao siêu này. Phản ứng của họ là phản ứng cẩn trọng của con người: ở Giu-đê, cuộc sống của Đức Giê-su bị đe dọa, vì thế Ngài không nên trở lại đó để thăm người bạn đang lâm bệnh vào lúc này. Đây là đề tài: “một từ đa nghĩa”, rất quen thuộc của Tin Mừng Thứ Tư. Đức Giê-su sẽ giúp cho các môn đệ vượt qua từ sự hiểu biết thuần túy địa giới đến một tiên cảm về mầu nhiệm. Như thông thường trong Tin Mừng Gioan, Đức Giê-su khai lòng mở trí cho các môn đệ nhờ vào cách thức mặc khải bí nhiệm. Dựa trên ý nghĩa ẩn dụ “ngày và đêm”, Ngài công bố mầu nhiệm của Ngài. Theo nghĩa vật lý, thành ngữ này muốn nói rằng có thời gian cho mỗi việc, và thật thích hợp khi chọn ban ngày để bước đi ngỏ hầu tránh những tai nạn khi phải bước đi trong đêm tối. Theo nghĩa ẩn dụ (nghĩa của Tin Mừng Thứ Tư), “ngày” là thời gian của ánh sáng. Điều này muốn nói rằng bao lâu Đức Giê-su vẫn còn đó, phải tận dụng ánh sáng của Ngài, mặc khải mà Ngài đem đến. Vì thế, nỗi sợ hãi thật sự không xuất phát từ những nguy hiểm do con người tạo ra, nhưng từ sự vắng bóng Ánh Sáng. Việc Đức Giê-su tiến về Giê-ru-sa-lem không được đánh giá theo sự chuyển biến thận trọng của con người, đúng hơn, thuộc phạm vi bày tỏ Ánh Sáng. Vì thế, đây là một lời mời gọi hãy tin vào Ngài nhờ vào Ánh Sáng này, nhưng cũng là lời loan báo về viễn cảnh đầy đe dọa của đêm sắp đến: cái chết và cuộc chiến thắng bóng tối, tức là quyền lực tử thần (x. Ga 13: 30b). Tiếp đó, dù không ai cho biết điều gì về bệnh tình của anh La-da-rô, Đức Giê-su công bố rằng anh La-da-rô đã chết qua hình ảnh giấc ngủ: “La-da-rô, bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy, Thầy đi đánh thức anh ấy đây” (11: 11), như trước đây đối với bé gái của viên trưởng hội đường: “Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5: 39). Đức Giê-su vui mừng vì sứ điệp của Ngài sẽ dễ dàng được hiểu ở nơi dấu lạ Ngài sắp thực hiện. Các môn đệ không còn tìm cách ngăn cản Ngài nữa. Một trong các môn đệ của Ngài, ông Tô-ma, tự phát và bạo dạn nói với các bạn đồng môn của mình: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy” (11: 16). Ông không ngờ rằng lời ông diễn tả chân tính người môn đệ của Đức Giê-su. 2. Cuộc đối thoại của Đức Giê-su với cô Mác-ta (11: 17-27) Khởi đi từ câu 17, câu chuyện bắt đầu một giai đoạn mới: khung cảnh không còn ở Ga-li-lê, nhưng ở Bê-ta-ni-a, chiều kích mặc khải của dấu lạ không còn được loan báo, nhưng được vén mở. Chính trong khung cảnh của cuộc đối thoại với cô Mác-ta mà ý nghĩa dấu lạ dần dần được sáng tỏ. A- Niềm tin của cô Mác-ta Trong khung cảnh Bê-ta-ni-a, chúng ta gặp lại tính tình khác nhau của hai chị em này: cô Mác-ta thì năng động, còn cô Ma-ri-a có đời sống nội tâm sâu lắng, đã được Tin Mừng Lu-ca ghi nhận trong một dịp Chúa Giê-su viếng thăm nhà của hai cô (Lc 10: 38-42). Tuy nhiên, trong câu chuyện của Tin Mừng Gioan, tính tình năng động của cô Mác-ta đã là cơ hội giúp Chúa Giê-su dẫn đưa cô, và qua cô dẫn đưa độc giả vào một mạc khải cao vời về chân tính của Ngài. Dù bận rộn tiếp đón những người thân đến chia buồn, nhưng vừa khi nghe tin Chúa Giê-su đến, cô Mác-ta hối hả ra tận đầu làng để đón Ngài. Khi vừa mới gặp Chúa Giê-su, cô Mác-ta trách cứ Ngài, Ngài đã cứu chữa biết bao bệnh nhân, ấy vậy lại đã không đến kịp lúc để cứu chữa người bạn mà Ngài thương mến. Tuy trách cứ như vậy, nhưng cô vẫn nuôi hy vọng: “Nhưng bây giờ con biết: Bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người sẽ ban cho Thầy” (11: 22). Nhưng Đức Giê-su muốn kiện toàn đức tin của cô, Ngài không muốn cô Mác-ta chỉ hài lòng thấy Ngài là “người của Thiên Chúa”, nghĩa là những gì Ngài cầu xin đều được Thiên Chúa nhận lời, nhưng cô còn phải nhận ra chân tính của Ngài. B- “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” Khi nói với cô Mác-ta: “Em chị sẽ sống lại” (11: 23), Chúa Giê-su cho cô biết đó là dự định của Ngài khi đến đây. Nhưng cô Mác-ta lại hiểu lời này là lời an ủi nên cô đáp: “Con biết em con sẽ sống lại, khi kẻ chết sẽ sống lại” (11: 24). Ở nơi câu trả lời của cô hàm chứa niềm tin của đạo Do thái. Từ nhiều thế kỷ trước đó, niềm tin vào sự sống lại thuộc về gia sản tinh thần của đạo Do thái, ngoại trừ nhóm Sa-đu-xê-ô. Chúa Giê-su tuyên bố: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống” (11: 25a), lời tuyên bố này được Chúa Giê-su khai triển xa hơn: “Ai sống và tin vào Thầy, thì dù đã chết, thì cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết” (11: 25b). Những lời này của Đức Giê-su đã được hiểu theo nhiều cách khác nhau và được giải thích theo nhiều cách khác nhau, tuy nhiên một điều chắc chắn: Đức Giê-su khẳng định Ngài là nguồn mạch sự sống đời đời. Thêm nữa, tiến trình của câu chỉ ra rằng Ngài muốn hiệu đính, hay đúng hơn bổ túc lời khẳng định của cô Mác-ta: Đối với người Ki-tô hữu, còn hơn cả sự sống lại vào ngày sau cùng, một cuộc sống siêu nhiên vô tận khơi nguồn ở nơi sự hiệp nhất của họ với Đức Ki-tô ngay từ cõi thế này. Ngoài ra, Giáo Hội còn dạy rằng cuộc sống không kết thúc ở nơi cái chết. Trong Thánh Lễ Cầu Hồn, Giáo Hội khẳng định: “Cuộc sống không hề mất đi, nhưng thay đổi” (vita mutatur non tollitur). Cuộc Mặc Khải chấm dứt với lời mời gọi dứt khoát theo thể nghi vấn: “Chị có tin thế không?” (11: 26). Câu hỏi này được đặt ra, ở bên kia cô Mác-ta, cho những ai hiểu lời hứa này của Đức Ki-tô. Cô Mác-ta đã lắng nghe. Cô đã đạt đến một niềm tin cao vời khi nhận ra Đức Giê-su là Đấng Ki-tô (Mê-si-a) và là Con Thiên Chúa: “Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Ki-tô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian”. 3. Thực hiện dấu lạ (11: 28-44) Sau lời tuyên xưng đức tin của cô Mác-ta, câu chuyện bước vào giai đoạn thứ ba, trực tiếp hướng đến việc thực hiện dấu lạ. Sự hiện diện của cô Ma-ri-a và của những người Do thái đem đến cho câu chuyện một hướng phát triển mới, một bước nhảy vọt. Việc thực hiện dấu lạ không đem đến những yếu tố mới cho phần mặc khải trước đó, nhưng cho phép ghi nhận thêm lần nữa vài phản ứng tiêu biểu của những người chứng kiến dấu lạ. A- Đức Giê-su xúc động Cảm xúc của Đức Giê-su được gợi lên đến ba lần: Ngài thổn thức tận đáy lòng (11: 33), Đức Giê-su liền khóc (11: 35), Đức Giê-su lại thổn thức tận đáy lòng (11: 38). Hơn bất cứ biến cố nào khác, biến cố này bày tỏ “nhân tính” của Đức Giê-su rất rõ ràng: sự xúc động của Ngài, sự dịu dàng của Ngài, nước mắt của Ngài, đồng thời cũng biểu lộ “thần tính” của Ngài, Đấng chủ tể sự sống và cái chết khi cho anh La-da-rô đã chết và được mai táng bốn ngày rồi được sống lại. B- “Hãy cất phiến đá này đi” Người kể chuyện kể tỉ mỉ ngôi mộ: “Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại”, vì những chi tiết này báo trước một cuộc mai táng khác, cuộc mai táng của chính Chúa Giê-su, theo đó cũng một phiến đá được lăn lấp mộ và được lăn ra khỏi mộ một cách mầu nhiệm. Khi cầu nguyện lớn tiếng, Chúa Giê-su có chủ ý khơi động niềm tin của những người có mặt, niềm tin vào Ngài, niềm tin vào sự hiệp nhất của Ngài với Cha Ngài, niềm tin mà Ngài muốn các môn đệ của Ngài phải kiên vững ngay trước khi cuộc thử thách lớn lao sắp xảy đến và để họ nhớ lại quyền năng của Ngài trên sự chết vào buổi sáng Phục Sinh. Khi mô tả cách chi tiết việc anh La-da-rô ra khỏi mồ, chân tay còn quấn vải liệm và mặt còn phủ khăn liệm, Tin Mừng Gioan có chủ ý nhấn mạnh với độc giả sự tương phản với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su, Ngài bỏ lại trong mồ mọi liên hệ với cái chết, cái chết này Ngài đã chiến thắng cách vĩnh viễn, không còn tác động gì đến Ngài. Đoạn Tin Mừng Gioan được trích trong Phụng Vụ hôm nay chấm dứt với câu 45 nhưng chúng ta phải đọc cho đến câu 53 để thấy dấu lạ của sự phục sinh này gây nên hai phản ứng trái ngược nhau từ phía người Do thái, những chứng nhân của dấu lạ: những người này tin (11: 45) trong khi những người khác “đi gặp nhóm Biệt phái và kể cho họ những gì Đức Giê-su đã làm” (11: 46), theo cách nào đó, đó là những người cộng tác vào quyết định của những kẻ thù của Đức Giê-su, bởi vì dấu lạ này còn là cái cớ để giai cấp lãnh đạo Do thái buộc tội và kết án tử cho Chúa Giê-su. 51. Thầy là Sự Sống Lại và là Sự Sống--Lm. Joshepus Quang NguyễnHôm nay đã là Chúa nhật 5 của Mùa Chay, vào chỉ còn một tuần nữa chúng ta bước vào tuần Thánh, ấy thế mà điều đặc biệt của Mùa Chay năm nay khác hẳn với mọi mùa Chay mà chúng ta đã từng trải qua, đó là những mấy tháng qua và gần hết Mùa Chay mà ai ai cũng ít để ý đến những gì là chay tịnh, là hy sinh, hãm mình ăn năn đền tội nhưng lo sợ về bệnh dịch Corona, sự lây nhiễm, sự cách ly, lo sợ thiếu ăn thiếu mặc, lo sợ sự chết chóc lan tràn chúng đeo đẳng lấy tâm trí ta từng ngày hôm nay. Bệnh dịch Corona nó làm con người bị tê liệt hoàn toàn. Còn cái chết thì như một nhát dao cắt đứt tất cả mọi dự tính về cuộc sống của chúng ta. Ngay cả đối với người tín hữu, cái chết vẫn là một mầu nhiệm làm chúng ta run rẩy lo âu là sợ hãi. Chính Đức Giêsu trong Vườn Dầu cũng sợ hãi trước cái chết. Vì sao sợ cái chết? Vì cái chết đưa đến chia ly vĩnh biệt trong có nước mắt, tiếc thương, nhung nhớ, xót xa và đau lòng… như chúng ta nghiệm thấy khi người thân yêu chúng ta xa lìa cuộc đời, hay thấy hàng trăm người chết vì dịch bệnh Corona xảy ra hàng ngày trên thế giới hôm nay. Và hôm nay trong Tin Mừng, hai chị em Macta và Maria rất đau buồn trước cái chết của người em là Lazarô. Cả hai đều tiếc vì Chúa Giêsu không có mặt lúc ấy. Bốn ngày đã trôi qua, đá đã lấp cửa mồ. Thi hài người chết đã bắt đầu rữa nát. Chẳng còn chút hy vọng nào... Khi nghe tin về Anh bạn Lazarô chết, bất chấp nguy hiểm đến tính mạng, Đức Giêsu trở lại Giuđê để đến thăm gia đình mà Ngài có lòng quý mến. Ngài biết Ngài sẽ làm gì để tôn vinh Chúa Cha, và qua đó chính Ngài cũng được tôn vinh. Dầu vậy, trước nỗi đau của hai chị em, Đức Giêsu vẫn thổn thức và xao xuyến. Ngài bật khóc trên đường đi đến mộ. Trước ngôi mộ đá, Ngài đã cất tiếng cảm tạ Cha, vì Cha đã nhận lời Ngài xin khi cho Ngài quyền làm cho người chết được sống lại. Và Chúa đã cho cho anh Lazarô sống lại thật sự, cả ba chị em và những người chứng kiến phép lạ vui mừng khôn tả. Thế giới văn minh nhưng bệnh dịch Corona đã giết chết quá nhiều người hơn chiến tranh, đói kém, phá thai, tự tử, những vụ ám sát, hay tai nạn giao thông... Cái chết thân xác phản ánh một cái chết nguy hiểm như cái chết của tình yêu ở trong lòng con người, cái chết niềm tin tưởng vào quyền năng Thiên Chúa, vào sự sống đời đời... nó nguy hiểm hơn nhiều vì cái chết làm cho con người sống buông xuôi, chán chường, mất đức tin, bỏ Chúa, sống khép kín trong ích kỷ, tuyệt vọng và vong thân. Đức Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ngài trả lại sự sống cho Lagiarô. Ngài lau khô nước mắt cho Macta và Maria, Ngài đêm lại niềm vui, bình an và hạnh phúc cho họ nhờ họ yêu mến, gắn bó, tin tưởng và cầu xin Chúa Giêsu tha thiết. Vậy, chỉ khi gắn bó với Đức Giêsu, chúng ta cũng có khả năng thông truyền sự sống, đức tin và niềm vui, hạnh phúc cho mọi người xung quanh chúng ta và toàn thế giới đang sống trong lo sợ bệnh dịch này. Chính vì thế, mà trong ngày Chúa nhật đầu tiên trong lịch sử Giáo Hội, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đọc kinh truyền tin tại quảng trường Thánh Phêrô không một bóng người, Ngài nói rằng: “Chính Tin Mừng là Lời của Chúa Giêsu đã làm thay đổi thế giới và tâm hồn chúng ta. Do đó, chúng ta được mời gọi tín thác vào Lời của Chúa Kitô, để mở tâm hồn đón nhận Lòng thương xót của Chúa Cha và để cho bản thân mình được biến đổi nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần.” Trước khi bước vào Tuần Thánh là đỉnh cao của mầu nhiệm Khổ Nạn Phục Sinh, Giáo Hội đọc bài Tin Mừng hôm này nhằm kêu gọi chúng ta tin vào Đấng là sự sống lại và là sự sống. Niềm tin ấy thắp sáng lên trong chúng ta một hy vọng vững chắc mà trần gian này đang bị bóng đen của sự chết dịch bệnh lan tràn mạnh đến đâu cũng không thể nào dập tắt được. Đức tin không chuẩn chước cho chúng ta khỏi những tang chế đau thương, những chia ly mất mát hay sự sợ hãi khi đối diện với cái chết. Nhưng đức tin là chấp nhận hiểu và sống các biến cố hiện tại dưới ánh sáng của sự sống siêu việt mà Đức Giêsu Kitô, Đấng là nguồn cội sự sống đã loan báo. “Tôi là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Tôi sẽ không chết bao giờ”. “Matta, con có tin điều đó không?”, Chúa Giêsu hỏi. “Vâng, thưa Thầy, con tin”. Matta nói lên niềm tin của chị cũng là niềm xác tín của chúng ta: “Con tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian”. Chớ gì khi tuyên xưng: “Tôi trông đợi kẻ chết sống lại và sự sống đời sau”, trong kinh Tin Kính chúng ta sắp đọc, niềm tin ấy không chỉ được phát biểu cách máy móc ngoài môi miệng, nhưng sẽ trở nên sức mạnh giúp chúng ta vững tin, can trường chịu đựng và lòng cây trông yêu mến Chúa thiết tha trước mọi đau khổ thử thách như hiện giờ chúng ta không đến nhà thờ dâng lễ được, đang bị cách ly, không buôn bán làm ăn gì được, đang bệnh tật ốm đau và ngay cả cái chết vì chưng chính Lời Chúa trong bài đọc hai xác tín với chúng ta rằng: “Nếu Đức Ki-tô ở trong anh em, thì dầu thân xác anh em có phải chết vì tội đã phạm, Thần Khí cũng ban cho anh em được sống, vì anh em đã được trở nên công chính. Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới”. 52. Hãy khóc vì tội chúng ta--Lm. Joshepus Quang NguyễnĐức Giêsu Kitô không chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy 7 tình cảm dạt dào nơi mỗi con người. Bảy tình cảm ấy là hỷ,nộ,ái,ố,ai,ô,dục (vui mừng, giận hờn, thương yêu, ghét ganh, buồn sầu, sợ sệt và ham muốn). Chẳng hạn, tính nóng của Chúa Giêsu: trước sự ngoan cố của những biệt phái, Ngài đã nổi tức giận, Ngài đã răn đe: “khốn cho ngươi, quân đạo đức giả…”. Rồi, trước sự buôn bán làm mất sự thánh thiêng nơi Đền thờ, Chúa Giêsu đã nổi nóng và xua đuổi. Rồi, tính thương người, trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài thương làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Rồi, tính vui vẻ, Ngài đã vui khi thấy trẻ con đến với Ngài và chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng. Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, hôm nay Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót anh Ladarô, người bạn thân thương của Chúa mà Tin Mừng chúng ta vừa nghe kể lại. Tuy nhiên, Chúa luôn giữ được thế quân bình trong con người của Ngài với 7 tình cảm, Ngài đã để cho chính Thần Khí chi phối mọi hành động hay hay lời nói của mình, chứ không hành xử theo bản năng. Chẳng hạn, trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài kiên trì, đầy ý chí và nghị để đạt được mục đích mình theo đuổi là cứu độ mọi người. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp của tự nhiên hay chính trong cuộc đời của mình, đặc biệt Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối. Tóm lại, đời sống 7 tình cảm của Chúa Giêsu hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được bản năng của mình trong mọi hoàn cảnh. Những 7 tình cảm của Chúa Giêsu hướng thiện, hướng về Thiên Chúa là Chân Thiện Mỹ. Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Ladarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Không! Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì sự ngoan cố của các người biệt phái, phủ nhận uy quyền toàn năng và vinh quang của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Mátta chưa được hoàn hảo ở chỗ là khi Đức Giêsu nói với chị em chị sẽ sống lại!" nhưng cô chỉ tin rằng em cô sẽ sống lại trong ngày sau hết" mà chưa tin rằng Đức Giêsu chính là sự sống lại và là sự sống đang nói với chị đây. Cho nên, Chúa Giêsu củng cố đức tin của chị hoàn hảo ở chỗ là Chúa Giêsu là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Chúa, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Chúa Giêsu ngày xưa khóc vì thương, còn chúng ta, chúng ta cũng khóc, ấy như khóc như thế nào? Trong đời này, chúng ta thường khóc rất nhiều từ khi sinh ra cho tới về với Chúa. Rồi trong cuộc sống, vui chúng ta cũng khóc mà buồn khóc, chưa có chồng cũng khóc, có chồng rồi cũng khóc, nghèo cũng khóc, người giàu cũng khóc, chưa say cũng khóc, say xỉn bí tỷ cũng khóc… khóc như thế thì chỉ là khóc bên ngoài mà thôi cũng giống kiểu khóc của các bà phụ nữ thành Giêrusalam theo Chúa Giêsu trên đường đi chịu chết ngày xưa mà nay chúng ta thấy trong chặng đàng thứ tám của đàng thánh giá chúng đọc: “Chúa thấy những người nữ nhân đức thành Giêrusalem đi theo Người, và than van kêu khóc, thì Người đoái lại mà rằng: “Ớ con thành Giêrusalem, chớ khóc thương Ta làm chi, hãy khóc thương các ngươi cùng con cháu các ngươi mà chớ. Ấy Chúa dạy tôi cho biết, nếu tôi chẳng khóc tội tôi, là cội rễ những sự cực Chúa chịu, một khóc Chúa bề ngoài mà thôi, thì Chúa chẳng sá kể”. Rõ ràng những giọt nước mắt bên ngoài mà thôi thì chưa không thật lòng, Chúa nào sá kể. Cho nên, ông bà ta nói đó là: “Nước mắt cá sấu”. Tại sao gọi là nước mắt cá sấu bởi vì cá sấu có một điểm đặc biệt là sau khi nuốt chửng con mồi, khoé mắt cá sấu lại chảy nước tương tự như con người chảy nước mắt khóc thương ai đó. Vì sự tương quan này người ta nghĩ là cá sấu đã khóc cho là kẻ vừa bị nó ăn thịt. Dựa vào tính cách khóc thương kiểu của cá sấu này, người ta liên tưởng đến những hạng người giả dối trong xã hội một mặt hại người, hại bạn, một mặt thì nói lời tử tế hiền lành yêu thương, khóc thương bên ngoài mà thâm hiểm bên trong. Vì vậy, Lời Chúa hôm nay dạy cho chúng ta rằng tiếng khóc trong lòng, khóc tiếc vì đã phạm tội, khóc tiếc vì đã xúc phạm với nhau gây đau khổ buồn sầu cho nhau trong gia đình, giáo xứ hay ngoài xã hôi khóc tiếc vì mình chưa yêu Chúa giữ giới răn Người dạy cho nên chưa yêu người thật lòng. Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ trong lòng hay niềm vui nào đó. Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc, chịu nạn chết trên cây thánh giá, làm mất tình nghĩa anh chị em trong gia đình và gây nhiều đau thương cho nhiều người trong xã hội. Đây mới chính là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Vì vậy, Mùa Chay, Chúa và Hội Thánh mời gọi biết khóc lóc ăn năn tội lỗi của mình để được thứ tha. Trong đêm Chúa tra tấn đánh đòn, Thánh Phêrô chối Chúa và Chúa Giêsu quay lại nhìn ông, ông sực nhớ lời Chúa đã bảo ông: "Hôm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần”. Và ông ra ngoài, khóc lóc thảm thiết. Nước mắt của ông Phêrô không chỉ dừng lại ở việc nhận ra lầm lỗi của mình mà còn là niềm vui vì được thứ tha. Một niềm cảm xúc dâng trào trong con tìm tan nát nay được chữa lành. Cảm nhận được tha thứ nên Phêrô đã khóc. Vâng, giọt nước mắt ăn năn của chúng ta phải phát xuất từ một tấm lòng nát tan vì tội lỗi. Đúng như lời ngôn sứ Gio-en nói: “Hãy xé lòng chứ đừng xé áo. Bởi chưng, một tấm lòng tan nát dày vò Chúa chẳng nở chối từ bao giờ”. Ước gì, qua Lời Chúa hôm nay giúp chúng ta đừng để để giọt nước mắt hối tiếc xảy bằng cách ngay bây giờ hãy sống yêu thương, tha thứ, hiền lành, công bằng và công mình chính trực với mọi người đồng thời yêu Chúa một cách chân tình qua việc giữ các giới răn của Người một cách hoàn hảo. Amen. 53. Chúa Giêsu làm cho anh Ladarô sống lại--Alain MarchabourDấu lạ thứ bảy theo Tin Mừng Gioan là dấu lạ vĩ đại nhất, đến nỗi có vài nhà chú giải xem dấu lạ này như là sự biểu hiệu trước cuộc Thương Khó và sự Phục Sinh của Chúa Giêsu hơn là đoạn kết phần thứ nhất của Tin Mừng. Luôn luôn như thế trong Tin Mừng Gioan, đây là một bài trần thuật tập trung vào Chúa Giêsu. Cả bài đều được sắp đặt chung quanh Chúa Giêsu; chính trong tương quan với Người mà mọi nhân vật được mời gọi thực hiện việc lựa chọn. Cảnh tượng xảy ra ở hai nơi. Ở bên kia sông Giođan (10,40-11,16) nơi Chúa Giêsu ở ẩn cùng các môn đệ và tại Bêtania (11,16-45) nơi ở của Lagiarô và hai chị. Theo Ga 1,28 thành phố bên kia sông Giođan cũng gọi là Bêtania. Như vậy, có hai “Bêtania”, ngăn cách bởi dòng sông Giođan, nơi này cách xa nơi kia trước tiên không phải về địa lý: có một Bêtania tĩnh lặng, đầy sức sống và lòng tin và một Bêtania náo loạn, đầy chết chóc. Bêtania, gần Giêrusalem, là nơi cư ngụ của Lagiarô, Matta và Maria, được giới thiệu ở đây như ba chị em. Lagiarô –có nghĩa là “Éléazar” (Thiên Chúa đoái thương) theo dạng thức Hy Bá- không được nhắc đến ở nơi nào khác. Cũng danh xưng này còn gặp thấy trong dụ ngôn về anh Lagiarô và ông nhà giàu (Lc 16) trong một tình huống không liên quan gì đến đoạn sách của chúng ta. Maria và Matta cũng không xuất hiện nào khác ngoài Lc 10,38-42. Phần Dẫn: 1-6 Bài trần thuật mở đề như một truyện ngắn: “Có một người đau nặng”. Lagiarô được đề cập đến trong tương quan với hai cô chị Maria và Matta. Chị Maria được đánh giá dựa vào việc xức dầu thơm cho Chúa Giêsu. Bởi vì cô chị này được đặt quan hệ với “ngày mai táng” của Chúa Giêsu, ta có thể hiểu điểm giải thích này như cách hướng dẫn để suy ngắm: Maria được đặt liền bên cạnh sự tang tóc và sự chết. Ở điểm này, hai chị em đều không khác nhau. Cô này cũng như cô kia đều được Chúa Giêsu thương mến, cả hai cô đều cho người đến báo cho Chúa Giêsu hay Lagiarô đau nặng. Có hai ghi chú khiến bài trần thuật trở nên bi thảm: Chúa Giêsu thương mến, thế nhưng Người còn lưu lại thêm hai ngày nữa! Điều trái nghịch này có thể là quan trọng. Nó còn lặp lại trong 11,36-37 dưới dạng thức lời xác quyết của người Do Thái: Kìa xem ông ta thương anh Lagiarô biết mấy!... Ông ta lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư! Phần dẫn nhập này tạo cho Chúa Giêsu một tư thế duy nhất bởi lẽ người báo trước biến cố này như một căn bệnh không phải đưa đến sự chết mà là tỏ hiện vinh quang của Thiên Chúa và của Chúa Con. Chúa Giêsu Và Các Môn Đệ: 7-16 Cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu với các môn đệ tạo nên một sự toàn nhất. Hơn nữa sự thống nhất của bài trần thuật được đánh dấu bằng sự bao hàm: Người nói với các môn đệ (c.7) Nào chúng ta cùng trở lại miền Giuđê người Do Thái tìm cách ném đá Thầy (c.8) nào chúng ta đến với anh ấy (c. 15) Tôma nói với các bạn đồng môn (c.16) chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy. Trong phần này, các môn đệ hành xử như thế theo hai thái độ. Trước tiên, các ông là đối tượng để Thầy dạy bảo. Quả thực, đứng trước cái chết của anh Lagiarô và những lời Chúa Giêsu nói, các ông tỏ ra không hiểu gì hết và cần lời giảng dạy của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu chứng tỏ mình thông hiểu và mời gọi các môn đệ cùng chia sẻ: đối với Chúa Giêsu, cái chết của anh Lagiarô là một giấc ngủ: điều đó khiến hiểu rằng Người có thể “đánh thức” nếu anh ta nghe tiếng của Chúa Giêsu. Sau nữa, các ông đi theo Người và sau khi phản đối, cuối cùng các ông cùng tham gia vào chương trình của Người: “Nào chúng ta cùng đi và cùng chết với Thầy”. Thực tế, các ông chứng tỏ thế nào là môn đệ: lắng nghe Thầy và tiếp bước theo Thầy cho đến chết (các Tin Mừng Nhất Lãm sẽ đề cập đến “vác lấy thập giá của mình”). Người kể chuyện khéo léo đưa vào một tựa đề thích hợp cho mỗi độc giả (mỗi người phải là môn đệ) và một sự quy chiếu vào biến cố đặc biệt bằng cách nêu tên ông Tôma và nhờ vậy tạo nên một căn cứ lịch sử cho bài trần thuật. Như vậy bài trần thuật vừa có tính lịch sử vừa có tính tượng trưng. Chúa Giêsu Và Cô Matta: 17-27 Bài trần thuật chuyển ngay sang bên kia sông Giođan nơi diễn biến cuộc đối thoại với các môn đệ, tại Bêtania gần Giêrusalem. Tác giả tự do tóm tắt trì hoãn để đạt đến các mục tiêu của mình. Kể từ câu 20, tác giả dùng bài trần thuật ngay tại cổng làng Bêtania để khai triển hai cảnh song song trong đó mỗi chị em đều có một vai trò khác biệt nhau. Cô Matta bỏ đám đông đang buồn thảm gồm cô Maria và nhiều người Do Thái để đi đón Chúa Giêsu. Việc đi đón này đặt cô Matta vào trong mối liên hệ đặc biệt tin tưởng khi đối diện với Chúa Giêsu. Có Chúa Giêsu hiện diện, sự chết không thể lấn lướt được Người. Niềm xác tín này của cô Matta được diễn đạt bằng ba dụng ngữ. Trước nhất cô xác tin rằng Chúa Giêsu có quyền trên sự chết. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là cơ hội để cô tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giêsu: “Con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy”. Lời quả quyết giống như một lời cầu xin (như trong 2,3). Về điểm này, cô nhận biết Chúa Giêsu là người của Thiên Chúa, theo cung cách của Êlia và Êlisê, những vị mà Thiên Chúa ban cho quyền làm cho kẻ chết sống lại (1V 17,17-24; 2V 4,18-37). Thế nhưng đối với một tín hữu Do Thái, rõ ràng chỉ có Thiên Chúa mới có thể ban sự sống, như lời của một kinh sư Do Thái minh chứng: “Ôi lạy Chúa, Chúa nắm trong tay ba bí quyết: quyền năng làm mưa gió, làm thụ thai trong lòng người nữ và làm cho kẻ chết sống lại”. Khi Chúa Giêsu ẩn mình đi để nhắc cho Matta niềm tin của người Do Thái vào việc làm cho kẻ chết sống lại (Ga 11,23), cô liền tiếp theo Người để tin vào tín điều của dân Israel: “Con biết em con sẽ sống lại trong ngày sau hết”. Nhất là khi Chúa Giêsu tỏ hiện như là sự sống lại và là sự sống, cô Matta liền vượt qua sự hiểu biết để tin: “Thưa Thầy, con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa” (11,27). Ở đây cô là dung mạo của người nữ tín hữu nhận biết nơi Chúa Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa kẻ sống vào giữa loài người. Ở đây Chúa Giêsu trổi vượt các ngôn sứ Êlia và Êlisê: Người được nhận biết như Đấng ban sự sống, theo mẫu hình của Thiên Chúa. Quả vậy, nhờ đức tin cô Matta đã hiểu rằng nơi Chúa Giêsu, chính Thiên Chúa ngự đến giữa loài người. Thật hoàn toàn hợp lý để cô Matta tuyên xưng Chúa Giêsu trong căn tính đích thực của mình, Đấng Mêsia của Thiên Chúa (cùng đích của Do Thái giáo) và Con Thiên Chúa. Như thế, cô tổng hợp Do Thái giáo (Đấng Mêsia) và sự mới lạ của Kitô giáo (Con Thiên Chúa). Tiểu đoạn này đã đạt đến đích điểm khiến cho việc anh Lazarô ra khỏi mồ sau này trở nên tương đối, bởi vì vận may đặc biệt của anh đã trở nên thứ yếu: “Ở đây điều hệ trọng là “ai sống và tin vào Chúa Giêsu” (11,25). Chúa Giêsu Và Cô Maria: 28-37 Người kể chuyện muốn nhấn mạnh đến sự tương đồng giữa hai chị em: họ gặp Chúa Giêsu tại cùng một địa điểm và thưa với Chúa Giêsu những lời như nhau. Thế nhưng lời đầu tiên của cô Maria chỉ lặp lại phần tiêu cực của điều cô em đã nói –“Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây”- còn thiếu phần tuyên xưng đức tin. Trong hành động và trong lời nói, cô Maria vẫn còn chìm đắm trong tang chế: cô đang ở với người Do Thái đến chia buồn (cc. 31.33). Cô đang khóc lóc thảm thiết. Có một niềm tin quá mức nơi cô Matta và một sự buồn thảm nơi cô Maria, ta có thể nói như vậy chăng? Các bản văn đều phóng khoáng và cô Matta người phụ nữ đầy lòng tin lại xuất hiện ở câu 11,39 với những dấu hiệu của sự thiếu tin tưởng. Thế nhưng, theo cách thức của nhà mô phạm, Gioan đã đánh dấu hai thái độ trước sự chết; cô Maria, được đề cập đến ngay từ phần đầu của bài trần thuật với vẻ tang tóc và chết chóc (c.2), tiêu biểu cho con người thất vọng vì sự từ biệt: sự buồn thảm thái quá khiến cô không thể đón nhận nơi Chúa Giêsu Đấng mặc khải của Thiên Chúa. Chúa Giêsu Đứng Trước Anh Lagiarô: 38-45 Cuộc hội ngộ với anh Lagiarô được đặt liền sau đoạn đau thương khóc lóc và phiền muộn. Chúa Giêsu lặp lại địa vị Chúa Tể của mình và tỏ bày bằng ba cách: a. Bằng lời nguyện xin cùng Chúa Cha qua đó biểu hiện sự kết hợp giữa Người với Chúa Cha và niềm xác tín được lắng nghe: “Con biết Cha hằng nhậm lời con”. b. Bằng quyền năng của Người nơi các nhân chứng. Người ra lệnh hai lần: “Đem phiến đá này đi”. Cô Matta còn do dự được hướng dẫn đến vinh quan của Thiên Chúa như Chúa Giêsu đã loan báo cho các môn đệ (11,4). “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Như thế đó, Chúa Giêsu không những giải thoát anh Lagiarô khỏi xiềng xích sự chết, mà còn không ràng buộc con người vừa mới được cứu thoát phải lệ thuộc vào mình. Người gởi trả anh Lagiarô về với sự sống. c. Bằng sự can thiệp ngắn gọn nhưng hiện hữu của Người: “Người kêu lớn tiếng: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”. Tiếng kêu này có tác dụng tạo được cho dấu lạ tính cách công khai không? Tiếng kêu có nêu lên được ý nghĩa tiếng nói của Người có thể vang đến xứ sở kẻ chết chăng? Cả hai ý nghĩa đều có thể, cùng với khả năng hướng đến tiếng kêu thảm thiết của Con Người vào thời cuối cùng lôi kéo kẻ chết ra khỏi mồ. Anh Lagiarô Khác hẳn với các nhân vật khác, nhân vật Lagiarô khá dài dòng: anh xuất hiện xuyên suốt bài trần thuật: anh là nguyên nhân làm phát sinh câu chuyện; anh là một câu chuyện của mỗi người và tạo cho tất cả các nhân vật khác khả năng làm cho sự chết một ý nghĩa. Anh xuất hiện với dáng vẻ thụ động, im lặng, một sự im lặng phong phú khiến cho mỗi nhân vật của bài trần thuật, và qua đó mỗi độc giả, đều có thể lên tiếng. Anh là người mặc khải cho mỗi người. Thoạt đầu, không có một yêu cầu nào đặc biệt: chính hai cô chị cho người đến nói với Chúa Giêsu: Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang bị đau nặng. Sống lại ra khỏi mồ, anh Lagiarô tiếp tục im lặng và rút lui theo lời nói bí ẩn của Chúa Giêsu: “Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi”. Người kể chuyện quan tâm đến “phần để trắng” trong tiến trình của anh Lagiarô: bốn ngày anh ở trong mồ có ý nghĩa gì? Sau khi sống lại ra khỏi mồ, anh làm gì? Bài trần thuật đạt đến tột đỉnh cùng với việc tuyên xưng đức tin của cô Matta. Anh Lagiarô đã được “đánh thức” bởi vì anh đã nghe lời của Chúa Giêsu. Đấy là chỗ duy nhất trong bài trần thuật: “Anh Lagiarô, hãy ra khỏi mồ!”. Tuy nhiên, về cuộc hành trình cá nhân của anh Lagiarô, không có một dấu vết nào được thuật lại cho chúng ta ngoài sự kiện anh Lagiarô một trong những người đồng bàn cùng với Chúa Giêsu trong 12,2: Orgiène đã nói: “Anh Lagiarô đã trải qua một quãng đường dài, bởi vì anh đã đi từ ngôi mộ đến bàn tiệc của Chúa”. Anh biến khỏi bài trần thuật khi mà thánh sử thông báo rằng các vị thượng tế quyết định giết cả anh Lagiarô nữa (12,11): lời nói có hiệu quả đáng kinh ngạc. Chúng ta sẽ không còn biết gì về anh nữa, ngoài những tục truyền. Thánh sử đã đề cập khá đầy đủ về anh: từ nay cần phải nhường chỗ lại cho Chúa Giêsu, Người mà anh có nhiệm vụ chuẩn bị sự chết và sự vinh quang. Chúa Giêsu Được Tỏ Hiện Trọn bài trần thuật đều tập trung vào Chúa Giêsu. Trong mỗi phân đoạn, Người đều là biểu tượng chính yếu và lần lượt tỏ lộ một khía cạnh nhỏ về căn tính của Người, như được chứng mình khi ta nhìn thoáng qua các phần khác nhau của bài trần thuật. 54. "Tôi là Sự Sống Lại và là Sự Sống"--John W. Martens(Văn Hào, SDB chuyển ngữ) (John W. Martens: Giáo sư trợ giảng môn Thần học tại đại học St. Thomas, Minnesota). “Tôi là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin vào tôi, dù có chết sẽ được sống” (Ga 11,25) Tại sao Đức chúa Giêsu khóc, khi thấy những giọt lệ rơi trên khóe mắt của hai chị em ông La-da-rô và các bạn hữu của Ngài? Rốt cục, Chúa Giêsu biết rằng La-da-rô đã chết thật rồi. Các động thái của Ngài cho thấy, Ngài vẫn để cho cái chết xảy ra. Vì vậy, tại sao Ngài lại khóc khi tiếp cận những khuôn mặt ủ dột sầu thương? Câu chuyện Chúa phục sinh La-da-rô khởi dẫn chúng ta đi vào thực tại nhân tính của Đức Giêsu và tìm hiểu những lý do về việc Ngài đến để chiến thắng sự chết. La-da-rô có hai chị em: Maria và Mát-ta. Họ “đã gửi cho Đức Giêsu một thông điệp”, báo tin La-da-rô đang ốm nặng. Chúa Giêsu quyết định không đến ngay để thăm người bạn đang hấp hối, nhưng phải đợi đến hai ngày sau khi La-da-rô đã chết. Ngài đến để “đánh thức La-da-rô dậy”. Chúa Giêsu muốn minh thị rằng cái chết thể lý không phải là kết thúc cuộc sống chúng ta, nhưng đó chỉ là một giấc ngủ và chúng ta sẽ được quyền năng Thiên Chúa làm cho thức dậy. Quả thật, Đức Giêsu vẫn để cho cái chết xảy đến. Ngài có vẻ như hài lòng vì đã không có mặt, để cho các môn đệ “tin” vào Ngài. Chúa Giêsu và các môn đệ đến nhà ông La-da-rô, người đã được mai táng trong mồ bốn ngày rồi. Mát-ta ra đón đường và nói với Chúa đến đây làm gì nữa. Chị ta nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, nếu thầy có mặt ở đây, em con đã không chết”. Chúa Giêsu trả lời: “Em con sẽ sống lại”. Chị ta hiểu rằng La-da-rô sẽ sống lại trong ngày sau hết. Nhưng, Đức Giêsu khẳng định lời tuyên bố của Ngài như là khuôn thước cho niềm tin vào Ngài. “Thầy là sự sống lại và là sự sống, ai tin vào thầy dù có chết cũng sẽ sống, và bất cứ ai sống và tin vào thầy, người đó sẽ không bao giờ chết. Còn con có tin điều đó không?” Mát-ta đã công bố niềm tin vào Đức Giêsu. Và rồi Maria cũng đến, sau chị của mình. Vài người bạn nghĩ rằng Maria ra mộ La-da-rô để than khóc nên cũng đến với Maria để an ủi cô. Ở đây câu chuyện không chỉ xoay quanh quyền năng Thiên Chúa, Đấng làm cho sống lại, nhưng lại hướng về nỗi buồn đau gây nên do bởi cái chết. Maria nói với Đức Giêsu: “ Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây em con đã không chết”. Câu nói của Maria trong câu 32 cũng tương đồng với lời nói của Mát-ta trong câu 21. Nhưng Maria bắt đầu gào khóc dưới chân Chúa, khi thốt ra những lời này, không giống cô chị Mát-ta khi Chúa Giêsu an ủi cô với viễn ảnh về sự phục sinh mai sau. Khi Đức Giêsu thấy những giọt lệ trên khuôn mặt Maria và các bạn, Ngài không trả lời “Em con sẽ sống lại”, như đã nói với Mát-ta. Thay vào đó, Ngài bắt đầu cảm thấy xao xuyến và trái tim bắt đầu lay động. Nhưng tại sao Ngài dàn dựng cảnh này, và tỏ ra hài lòng vì La-da-rô đã chết, để khơi dậy niềm tin nơi các môn đệ và có lẽ cả nơi những người đã quen biết La-da-rô. Ngài trực diện với sự mất mát tang tóc do cái chết thể lý gây nên, và Ngài cũng bắt đầu khóc. Ở đây, chúng ta cũng lại hỏi lý do tại sao, trong khi Ngài biết Ngài có thể làm cho La-da-rô sống lại, và Ngài cũng biết cái chết không có quyền lực sau cùng trên Ngài cũng như trên con người, sao Ngài lại khóc?. Lúc này, thực tại con người cùng với cái chết đã mang âm hưởng nơi Đức Giêsu qua cách thức chưa từng xảy ra. Qua cuộc gặp gỡ này, Đức Giêsu không chỉ giản đơn biết về cái chết theo cách trừu tượng nhưng trong chính thực tại nhân sinh kiếp người. Ngài thấy các bạn bè khóc, cả những người vẫn tin rằng sự chết một ngày kia sẽ bị khuất phục. Ngài cũng thấy một sự đau đớn xuyên thấu tâm hồn, khi đứng trước hình hài của một người thân đang được vùi chôn trong mộ. Ray Jasper, khi đứng trước một dãy xác người đang thoi thóp sắp chết, đã diễn tả cảm xúc của mình như sau: “Xúc cảm trào dâng giúp bạn có được một trải nghiệm trước cảnh tượng đó. Cảm xúc đó nói lên: Nếu người chết đó chính là tôi thì sao? Đức Giêsu đã bật khóc vì Ngài cũng cảm thấy nỗi đau đớn. Ngài cũng thông chia vào những đớn đau nơi thân phận kiếp người. Ngài cũng có thể nói “Người chết đó chính là tôi.” Đức Giêsu đã trải nghiệm cái chết như một kiếp người, cảm thấu sự mất mát bi thương nơi các bạn hữu. Ngài biết rằng cái chết sẽ gây nên sự tàn phá, đưa chúng ta trở về cát bụi, nơi mà chúng ta đã xuất phát. Chúng ta nhớ rằng, trong Mùa Chay, chúng ta cần phải tập chết như thế, để cứu chúng ta thoát khỏi cái chết thực sự, bởi vì Đức Giêsu đã thấy được những giọt lệ than khóc từ nơi những người khác. Ngài không muốn cùng với chúng ta đón lấy cái chết, nhưng muốn lau khô giọt lệ của chúng ta luôn mãi. Ngài nói với chúng ta hãy khu trừ sự chết, vì chúng ta được dựng nên để được sống và sống muôn đời. 55. Suy niệm của Lm. Anthony Trung ThànhBệnh tật, chết chóc là những nỗi khổ của con người. Nhưng có khi qua bệnh tật, chết chóc con người lại nhận được những bài học có giá trị cho cuộc sống. Chúng ta có thể thấy được điều này qua “sự cố” của ông Ladarô mà câu chuyện Tin Mừng hôm nay kể lại. 1. Bài học thứ nhất: Sự liên đới và quan tâm giúp đỡ Đó chính là tình liên đới giữa Đức Giêsu với ba chị em Martha, Maria và Ladarô: Xét về phạm vi tự nhiên, giữa Đức Giêsu và ba chị em của Martha có một mối tương quan tình bạn gần gũi, thân thiện và trong sạch. Hiện diện với nhau khi vui, có mặt với nhau khi buồn, đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh. Trong một xã hội mà con người dễ bị cám dỗ sống dửng dưng với nhau như hôm nay, thì tình liên đới tốt đẹp giữa Đức Giêsu với ba chị em nhà Martha là mẫu gương cho mỗi người chúng ta noi theo. Đó là tình liên đới giữa các thành viên trong gia đình: Khi biết Ladarô bị bệnh, hai chị em Martha và Maria đã cho người nhắn tin cho Đức Giêsu: “Người Thầy yêu đau nặng” (Ga 11,3). Việc làm này thể hiện sự quan tâm của Martha, Maria đối với em là Ladarô. Trong cuộc sống, chúng ta cần có sự liên đới giúp đỡ nhau, nhất là giữa những người thân thuộc trong gia đình. Khi một ai đó trong gia đình bị bệnh, những thành viên khác cần quan tâm giúp đỡ, nhất là tìm thầy chạy thuốc, để người ốm đau được khám chữa bệnh một cách chu đáo hầu mong chóng khỏe lại. 2. Bài học thứ hai: Làm Sáng Danh Chúa Trong bài Tin Mừng Chúa nhật tuần trước, khi các môn đệ hỏi Đức Giêsu về trường hợp anh mù từ khi mới sinh. “Anh ta bị mù là do tội anh ta hay do tội của cha mẹ anh ta?” Đức Giêsu trả lời: "Không phải anh ta, cũng chẳng phải cha mẹ anh ta đã phạm tội. Nhưng sở dĩ như thế là để thiên hạ nhìn thấy công trình của Thiên Chúa được tỏ hiện nơi anh” (Ga 9, 3). Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, khi Martha và Maria sai người đến báo tin cho Đức Giêsu biết “Người Thầy yêu đau nặng.” Đức Giêsu cũng trả lời rằng: “Bệnh này không đến nỗi chết, nhưng để làm sáng danh Thiên Chúa và do đó Con Thiên Chúa sẽ được vinh hiển” (Ga 11,4). Và sau đó, diễn biến của câu chuyện Tin Mừng thực sự đã làm sáng danh Thiên Chúa. Bởi vì, qua câu chuyện Tin mừng này niềm tin của các Tông đồ được cũng cố, chính Đức Giêsu đã nói: “Ladarô đã chết. Nhưng Thầy mừng cho các con, vì Thầy không có mặt ở đó để các con tin. Vậy chúng ta hãy đi đến nhà ông”(Ga 11,14). Không những niềm tin các Tông đồ được cũng cố mà niềm tin nơi các người hiện diện cũng được cũng cố. Chính Martha thưa với Đức Giêsu khi Ngài hỏi về niềm tin rằng: "Thưa Thầy, vâng, con đã tin Thầy là Ðấng Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống đã đến trong thế gian" (Ga 11, 27). Và nhiều người Do thái cũng đã tin vào Đức Giêsu khi chứng kiến phép lạ này (x. Ga 11,45). 3. Bài học thứ ba: Giúp mọi người hiện diện tin vào sự sống đời sau Phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại báo trước sự phục sinh của Ngài sau này, đồng thời hé mở cho chúng ta thấy viễn tượng sống lại trong ngày sau hết như chúng ta tuyên xưng trong Kinh Tin Kính “Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy.” Thật vậy, con người có hai sự sống: sự sống thể xác và sự sống linh hồn. Trong bài đọc II, Thánh Phaolô gọi là sự sống phần xác và sự sống theo Thần Khí. Cũng vậy, con người có hai cái chết: chết về phần xác và chết về phần linh hồn. Đối với phần xác: Có ngày khai sinh, có ngày khai tử. Không ai sống mãi ở trên cõi đời này. Người trẻ cũng chết. Người già cũng chết. Người giàu cũng chết. Người nghèo cũng chết. Người có quyền cao chức trọng cũng chết. Người thường dân cũng chết. Ladarô trước khi được Đức Giêsu cho sống lại cũng đã chết 4 ngày và chắc chắn sau đó ông cũng phải chết. Đức Giêsu vì mang bản tính con người cho nên Ngài cũng chết. Nhưng đức tin kitô giáo dạy chúng ta “xác loài người ngày sau sẽ sống lại.” Ngoài phần xác, con người còn có phần linh hồn. Linh hồn nhận được sự sống của Thiên Chúa khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội. Linh hồn được nuôi dưỡng nhờ Bí tích Thêm sức, Giao Hòa, Thánh Thể, Xức dầu… Sự sống linh hồn sẽ được kéo dài vĩnh viễn bên Chúa khi con người chết trong ơn nghĩa Chúa. Chúng ta gọi là chết lành. Đó là trường hợp của ông Ladarô trong “dụ ngôn nhà phú hộ và ông Ladarô” (x. Lc 16,19-31), đó là tình trạng của năm cô khôn ngoan trong “dụ ngôn mười trinh nữ” (x. Mt 25,1-13), đó là tình trạng của những người đứng bên hữu Đức Giêsu trong ngày phán xét (x. Mt 25, 31.46). Đó là tình trạng của các thánh trên Thiên đàng. Chính Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu đã nói: "Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi." Nhưng sự sống linh hồn cũng có thể bị chết do tội lỗi. Khi con người cố tình phạm tội trọng thì coi như linh hồn đã chết. Nếu tình trạng đó kéo dài sau khi chết cả phần xác thì sẽ lâm vào tình trạng chết đời đời. Chúng ta gọi là chết dữ. Đó là tình trạng của nhà phú hộ trong “dụ ngôn người phú hộ và ông Ladarô,” năm cô trinh nữ khờ dại trong “dụ ngôn mười trinh nữ” và những người đứng bên tả Đức Giêsu trong ngày cánh chung. Tóm lại, sự cố của ông Ladarô là cơ hội để con người thể hiện sự quan tâm và tình liên đới với nhau. Đặc biệt đây là dịp để làm sáng danh Chúa và củng cố niềm tin vào sự sống đời đời của chúng ta. Lạy Chúa, chúng con cám tạ Chúa đã cho chúng con có đức tin, nhất là đức tin về sự sống đời sau. Xin cho mỗi người chúng con không chỉ tuyên xưng niềm tin mà còn thể hiện niềm tin đó trong cuộc sống để ngày sau chúng con được sống mãi với Chúa trên Thiên Đàng. Amen. 56. Chú giải của Noel QuessonCó một người bị đau nặng tên là Ladarô, quê ở Bêtania làng của hai chị em cô Mácta và Maria. Cô Maria là người sau này sẽ Xức dầu thơm cho Chúa, và lấy tóc lau chân Người (Ga 12,1-3). Anh Ladarô. Người bị đau nặng, là em của cô. Bêtania ngày nay vẫn luôn mang tên bằng tiếng Ả Rập “El Azaneh", làng của Ladarô. Trong tiếng Do Thái “Beithaneiah" có nghĩa là "nhà của người nghèo". Bêtania! ở triền phía Đông của núi Ô-liu, ở 3 km phía Đông Giêrusalem, đó là phía mặt trời mọc trên Giêrusalem.. Đó là đỉnh của ngọn núi mà dưới chân nó, trên phía có bóng che, có vườn Ghết-sê-ma-ni ở phía thấp dưới. Bêtania! Đó là ốc đảo của ánh sáng và tình bạn hữu. Ở đó, trong một ngôi nhà thân hữu, Đức Giêsu đã sống hạnh phúc. Hai chị em sai người nói với Đức Giêsu: “Thưa Thầy, người Thầy thương mến đang đau nặng". Nghe vậy Đức Giêsu bảo: "Bệnh này không đến nỗi chết đâu, nhưng là dịp để bày tỏ vinh quang của Thiên Chúa: qua cơn bệnh này, Con Thiên Chúa được tôn vinh". Đức Giêsu quí mến cô Mácta, cùng hai người em là cô Maria và anh Ladarô. Trong cuộc sống đầy xáo động và khó khăn của Chúa Giêsu. Bêtania là chốn cõi lòng được nghỉ ngơi. Theo thói quen, Tin Mừng giới thiệu một Đức Giêsu hoàn toàn! được toả hào quang với địa vị Đức Chúa Phục sinh (và sự cám dỗ "theo thuyết một bản tính" rõ ràng là chỉ nhìn thấy bản tính Thiên Chúa nơi Người). Vậy mà, Thánh Gioan, người trông thấy rõ nơi Người Ngôi Lời, Con vĩnh cửu, cũng là người cho chúng ta thấy "con người" nơi Đức Giêsu. Người đã có nhiều tình bạn với nữ giới; như ta thấy rõ trong câu nói tinh tế và đơn sơ này: "Đức Giêsu yêu mến Mácta và em gái của cô", người cũng sẽ, lát nữa run lên vì xúc động và khóc. Tuy nhiên sau khi được tin anh này lâm bệnh, Người còn lưu lại thêm hai ngày lại nơi đang ở. Rỗi sau dó, Người nói với các môn đệ: "Nào, chúng ta cùng trở lại miền Giu-đê". Các môn đệ nói: "Thưa Thầy, mới đây người Do Thái tìm cách ném đá Thầy, mà Thầy lại còn đến đó sao?". Đức Giêsu trả lời: "Ban ngày chẳng có mười hai giờ đó sao? Ai đi ban ngày thì không vấp ngã, vì thấy ánh sáng mặt trời. Còn ai đi ban đêm thì vấp ngã vì không có ánh sáng nơi mình". Sự sống lại của Ladarô là "phép lạ cuối cùng" của Chúa Giêsu, dấu hiệu cuối cùng mà người dành cho người Do Thái trong vụ tranh tụng giữa ánh sáng và bóng tối: ngay sau dấu hiệu này, trong Thánh Gioan, là cuộc Thụ Nạn bắt đầu (Ga 11,46-53). Khi đi sang miền Giuđê để cứu anh bạn Ladarô của mình, Đức Giêsu đi đón nhận cái chết của mình. Chúng ta chú ý là Đức Giêsu, mặc cho tình yêu của Người đối với hai người bạn gái, đã cố tình chậm đến gặp lại họ: Dù vẫn hoàn toàn nhân bản, Đức Giêsu không bao giờ để mình bị dẫn dắt bởi tình cảm của mình nhưng bởi ý muốn của Chúa Cha (4,34; 7,18; 8,29). Người đã đợi cho Ladarô chết vì người biết thế, người không đến để tránh cho chúng ta khỏi đau khổ và tang chế, nhưng thay đổi những đau khổ và cái chết này nhờ sự sống lại của Người, chính Người cũng sẽ không tránh cái chết cho mình! Nói những lời này xong. Người bảo họ: “Ladarô bạn của chúng ta đang yên giấc; tuy vậy Thầy đi đánh thức anh ấy đây. Các môn đệ nói với Người: "Thưa Thầy, nếu anh ấy yên giấc được anh ấy sẽ khoẻ lại". Đức Giêsu nói về cái chết của anh Ladarô, còn họ tưởng về giấc ngủ thường. Bấy giờ Người mới nói rõ: "Ladarô đã chết, Thầy mừng cho anh em vì Thầy đã không có mặt ở đó, để anh em tin. Thôi nào chúng ta đến với anh ấy". ông Tôma, gọi là Đi-di-mô nghĩa là sinh đôi nói với các bạn đồng môn: "Cả chúng ta nữa, chúng ta cùng đi để cùng chết với Thầy”. Đức Giêsu luôn luôn gọi cái chết là một "giấc ngủ", và nhờ đó mời chúng ta thay đổi quan niệm của chúng ta về cái thực tại không thể tránh được này (Mt 9,24: Ga 11,11) Cái chết thể lý, đối với Đức Giêsu, là một giấc ngủ đơn sơ và tạm bợ; nấm mồ trở thành một nơi người ta nghỉ ngơi trong lúc chờ đợi thức dậy. Và Thánh Phaolô sẽ ca lên: "Hỡi người đang ngủ, hãy tỉnh giấc, ngày đã sáng rồi. Từ trong kẻ chết, người hãy trỗi dậy, và được sáng ngời" (Ep 5,14). Lạy Đức Giêsu, xin hãy giúp con hiệp thông thực sự ý tưởng của Chúa để cất khỏi sự chết cái đặc tính bi thảm của nó, để xem nó như sự "phát tình của Thiên Chúa" huyền nhiệm, khiến chúng con cuối cùng có thể tham dự vào cuộc sống hạnh phúc của nó: Những ai đã ngủ yên trong Đức Giêsu, thì Thiên Chúa sẽ dẫn đưa họ cùng đi với Người..." (1Tx 4,14), "bởi vì Đức Kitô đã sống lại từ kẻ chết, quả đầu mùa của những ai đã ngủ yên..." (I Cr 15,20). Vâng Đức Giêsu có thể "vui mừng" về cái chết của Ladarô. Ôi mạc khải! Mạc khải duy nhất có ích lợi... về cái chết. Khi đến nơi, Đức Giêsu thấy anh Ladarô đã chôn trong mồ được bốn ngày rồi. Bêtania cách Giêrusalem không đầy ba cây số. Nhiễu người Do Thái đến chia buồn với hai cô Mácta và Maria, vì em các cô mới qua đời. Vừa được tin Đức Giêsu đến, cô Mácta liền ra đón Người. Còn cô Maria thì ngồi ở nhà. Cô Mácta nói với Đức Giêsu: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết, nhưng bây giờ con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa. Người cũng sẽ ban cho Thầy” Đức Giêsu nói: "Em chị sẽ sống lại". Cô Mácta thưa: "Con biết em con sẽ sống lại khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết. Đức Giêsu liền phán: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống lại. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết. Chị có tin thế không?". Cô Mácta đáp:Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô. Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian". Mácta, như một phần lớn những người Do Thái thuộc thời cô, tin vào sự sống lại vào lúc tận thế... những ngày sau cùng! Điều mới mà Đức Giêsu yêu cầu cô tin, chính là một sự sống lại "hiện tại": "Thầy là sự sống lại!". Đây là câu trả lời của Thiên Chúa cho câu hỏi độc nhất nghiêm chỉnh của lời Người, câu hỏi đặt ra cho mỗi người trong chúng ta khi đối diện với cái chết. "Ai tin vào Thầy dù đã chết sẽ sống". Thật? hay không thật? hay bạn không tin điều đó? Kinh Tin Kính của chúng ta đơn sơ và ngắn gọn: Đức Giêsu làng Nadarét, đã chết và đã sống lại! Điều đó đơn giản như một buổi sáng Lễ Phục sinh. Trong khi chờ đợi chết. chúng ta phải sống điều đó, phải tin điều đó. Bởi vì tất cả mọi người tin vào Đấng đã sống lại không thể sống một cuộc đời không có tình yêu, không cậy trông, không niềm vui được của sẻ. Nếu bạn phải chết chiều nay, bạn sẽ làm thế nào để có thể trải qua ngày này trước khi ôm lấy Chúa? Cuộc đời của một tín hữu đầy sự sống lại, đầy sự sống và đầy niềm vui. Thầy là sự sống lại và là sự sống Những lời kiêu kỳ gây hốt hoảng? Đó là một thằng điên nói ra... hay chính là Thiên Chúa. Cuộc sống mà Người nói đến, hiển nhiên có một bản tính khác với cuộc sống sinh lý này, chết là hết; nhưng là cuộc sống của Thiên Chúa. Ai tin Thầy thì sẽ không bao giờ chết. Đức tin, ngay từ bây giờ, là một sự vui hưởng trước đời sống đó, đời sống không chết, chính là đời sống của chính Thiên Chúa. Nói xong. Mácta đi gọi em là Maria và nói nhỏ: “Thầy đến rồi, Thầy gọi em đấy. Nghe vậy cô Maria vội đứng lên và đến với Người... Khi đến gần Đức Giêsu, cô Maria vừa thấy Người, liền phủ phục dưới chân và nói: ' Thưa Thầy nếu có Thầy ở đây em con đã không chết”. Thấy cô khóc và những người Do Thái đi theo cũng khóc, Đức Giêsu thao thức trong lòng và xao xuyến. Người hỏi: "Các anh để xác anh ấy ở đâu?”. Họ trả lời: ' Thưa Thầy! mời Thầy đến mà xem". Đức Giêsu liền khóc. Người Do Thái mới nói: "Kìa xem! Ông ta thương Ladarô biết mấy". Có vài người trong nhóm họ nói: "ông ta mở mắt cho người mù, lại không thể làm cho anh ấy khỏi chết ư?". Đức Giêsu lại thổn thức trong lòng. Người đi tới mộ. Ngôi mộ đó là một cái hang có phiến đá đậy lại. Thật là tai hại, lại một lần nữa, khi những người phiên dịch đã không phán đoán tốt để cho người ta cảm thấy trong bản (dịch của họ, một tiểu tiết thật đẹp trong bản văn Hy Lạp, mà hiển nhiên là Gioan muốn thế. Ba lần, khi nói đến Mácta và Maria và những người Do Thái, Gioan dùng tiếng "Klainein" có nghĩa chính xác là "khóc, nức nở to tiếng" và chúng ta đoán những tiếng nấc và tiếng kêu ở Phương Đông, rất chan hòa tình cảm của mình, mà người ta thoáng nghe thấy nơi những bà khóc mướn chung quanh đám tang. Nhưng khi đến Đức Giêsu, Gioan thay đổi tiếng, và nói về "dakruein", có nghĩa là "khóc thổn thức lặng lẽ”. Và từ này làm cho tôi trông thấy những giọt nước mắt âm thầm rơi trên mắt của một Giêsu làm chủ được mình, và cả khi Người đau khổ. Người vẫn khống chế được đau khổ riêng của mình. Đức Giêsu nói: "Đem phiến đá này đi". Cô Mácta là chị người chết liền nói: 'Thưa Thầy nặng mùi rồi, vì em con ở trong mồ đã được bốn ngày! Đức Giêsu bảo: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, thì chị sẽ được thấy vinh quang của Thiên Chúa sao?". Rồi người ta đem phiến đá đi. Đức Giêsu ngước mắt lên và nói: "Lạy Cha, con cảm tạ Cha. vì Cha đã nhậm lời con. Phần con, con biết Cha hằng nhậm lời con. Nhưng vì dân chúng đứng quanh đây, nên con đã nói để họ tin là Cha đã sai con". Câu truyện dài dòng này, dẫn nhập vào cuộc sống lại của Ladarô, đi cho chúng ta hiểu là mục đích của trang này không phải là sự "tỉnh dậy" của cái chết thể lý của Ladarô, nhưng chính là sự tiến bộ trong đức tin của tất cả những người bao quanh Đức Giêsu. Và hành vi cảm tạ của Đức Giêsu, ta hãy chú ý điều này, không nhắm đến phép lạ mà Người sắp làm, nhưng đến sự kiện là phép lạ này sẽ giúp cho những người không tin hay những người yếu lòng tin "tin tưởng": - Những môn đệ đã chống, không lên lại Giêrusalem, họ nghi ngờ, họ sợ. - Mácta không muốn mở ngôi mộ, chị hoài nghi, tử thi đã để quá trễ ngày. Những người Do Thái, cho dù họ có thiện cảm với ba chị em, không tới để khóc nức nở. Đức Giêsu muốn cầu nguyện cho tất cả họ, cho tất cả những người khó lòng tin tưởng, cho tôi, cho các bạn. Và đức tin chính là gì vậy? Chính là nhìn nhận rằng Đức Giêsu đến từ chỗ khác. Đức Giêsu được sai đi. Bạn có tin điều đó không? Bạn có tin cái chỗ khác từ đó Đức Giêsu đến không? Trong trang này của Gioan, có 23 cuộc di chuyển nơi chỗ được nhắc đến: bên ngoài Giu-đê, về hướng Giu-đê, về hướng Bêtania, về phía nhà, về phía mộ, về phía Giêrusalem; nhưng trung tâm của tất cả những cuộc di chuyển này, dù bề ngoài thế nào, không phải là "ngôi mộ" có thể cuốn hút chúng ta nhìn vào, mà đó là một thế giới khác, thế giới của Chúa Cha, từ đó Đức Giêsu được sai đi! Không có nơi đó, vấn đề cái chết không được giải quyết. Nói xong, Người kêu lớn tiếng: "Anh Ladarô hãy ra khỏi mồ!". Người chết liền ra, chân tay còn quấn vải và mặt còn phủ khăn. Đức Giêsu bảo: "Cởi khăn và vải cho anh ấy, rồi để anh ấy đi". Đông đảo người Do Thái đã đến thăm cô Macta, và đã chứng kiến việc Đức Giêsu làm. Họ tin vào Người. Vấn đề chính yếu, đối với con người, theo Đức Giêsu, trước hết không phải là có thể ra khỏi mồ một ngày kia, mà ngay từ bây giờ, đi từ sự chết sang sự sống bằng một đức tin gắn bó vào bản thân Đức Giêsu: "Họ tin vào Người", còn chúng ta? 57. Chú giải của Fiches Dominicales.LAZARÔ SỐNG LẠI VÀI ĐIỂM CHÚ GIẢI: 1. Từ Bêtania của sự sống đến Bêtania của sự chết. Cũng như cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu với người phụ nữ xứ Samaria, bên bờ giếng Giacob, như bước chân của người mù bẩm sinh tiến về ánh sáng, Phúc âm về sự Lazarô là một trong những bản văn quan thuộc truyền thống Gioan mà Giáo Hội, ngay từ hai thế kỷ đầu tiên, đã dùng vào việc khai tâm cho tân tòng. Đi liến với trình thuật về quyết định của Hội đường - dẫn đến việc kết án Đức Giêsu - trình thuật về sự phục sinh Lazarô là một văn bản bản lề trong Phúc âm Gioan. Trình thuật này hoàn tất phần một, với dấu chỉ thứ 7 (số 7 là số hoàn hảo) và cũng là dấu chỉ cuối cùng của Đức Giêsu. Trình thuật này cũng khởi đầu phần hai vì sắp đề cập đến cái chết của Đức Giêsu khi nói với giới lãnh đạo Do Thái rằng đã đến lúc kết thúc với Người. Trình thuật này dẫn ta từ một Bêtania này đến một Bêtania khác. Bắt đầu ở Bêtania bên kia sông Giođan, "nơi Gioan làm phép rửa" (1,28). Đức Giêsu đã tĩnh tâm ở đó sau một cuộc tranh luận vào dịp lễ Cung hiến Đền thờ và người Do Thái đã muốn ném đá Người (1,39 và 11,8). Trình thuật kết thúc ở Bêtania gần Giêrusalem nơi Matta và Maria đã phát ra thông tin báo động: "Thưa Thầy, người Thầy yêu mến đang bệnh nặng". A. Marchadour nhận xét: Như thế có hai Bêtania cách nhau bởi con sông Giođan, xa nhau bằng một khoảng cách không chỉ đơn thuần là địa lý: Bêtania của yên tĩnh, của sự sống, của đức tin và Bêtania của lo âu, của cái chết. Sự chậm trễ của Đức Giêsu sẽ là nguyên nhân cho truyện kể - cho Người có cơ hội giải thích trước rằng cơn bệnh của Lazarô không nguy đến tính mạng, nhưng chỉ để làm vinh danh Thiên Chúa và Con Người. nếu Đức Giêsu nói về cái chết của bạn Người là một “giấc ngủ” chính là để ta hiểu rằng ông có thể thức dậy nếu ông nghe tiếng Người. Trình thuật này là truyện kể về sự trở lại đời sống hơn là về sự phục sinh theo đúng nghĩa. X. Leon Dufour viết: "Thực vậy, từ ngữ "phục sinh" thường được dùng trong phép lạ này là không chính xác, vì, theo dữ kiện Kinh Thánh, từ ngữ ấy được dành riêng để chỉ sự vượt qua từ cái chết đến sự sống vĩnh viễn; nó không được dùng để chỉ cuộc trở lại với đời sống ở trần gian này: Để nói về sự phục hồi sự sống gian trần, ta có thể dùng từ ngữ hồi sinh, nhưng từ ngữ này có tính chất y học được dùng. Vậy ta nên dùng kiểu nói "trở lại đời sống” để chỉ sự kiện này". 2. Một hành trình của nhận thức. Một lần nữa Gioan lại đưa ta vào một hành trình nhận thức. Một lần nữa, ta có thể quan sát những chuyển dịch có ý nghĩa biểu tượng rất cao của các nhân vật trong trình thuật. X. Leon Dufour ghi nhận: "Mọi người đều rời nơi mình ở. Mọi người đều ra đi. Đức Giêsu và các môn đệ từ bên kia sông Giođan; những người Do thái từ Giêrusalem, Matta từ ngôi làng, Maria với những người Do Thái từ nhà nàng trong làng; Lazarô từ nấm mộ. Nếu Đức Giêsu ngừng chân, khi đến Bêtania và không vào nhà hiếu, chính là để lại lên đường cùng với cả nhóm, tiến tới nơi Người phá tan sự chết, trong khi chuyển động của các nhân vật khác, kể cả Lazarô, đều hướng tới gặp gỡ Ngài". Một lần nữa, ta có thể nhận ra những bí quyết luôn làm cho truyện kể thêm sinh động: Sự khinh thường của các môn đệ về giấc ngủ cái chết của Lazarô. Sự khinh thường của Matta vế vấn đề thời điểm phục sinh: ngày sau hết, ngay bây giờ. Phải đi xa hơn nữa để vượt qua mức độ đầu tiên của ý nghĩa: Về ánh sáng: ta sẽ được mời, cùng với các chứng từ? vượt qua "ánh sáng của trần gian này đến với Đấng là Anh sáng soi trần gian" (câu 9-10). Về ơn cứu độ: ta sẽ được mời, cùng với các chứng từ vượt qua thứ chữa khỏi bệnh một cách quá giản đơn, cả cuộc hồi phục sự sống về phương diện sinh lý, đến sự tiếp nhận ơn cứu dộ của Thiên Chúa trong Đức Giêsu Kitô. 3. Lên đến tuyệt đỉnh trong lời tuyên xưng đức tin của Matta. Tới Bêtania trong xứ Giuđêa này, Đức Giêsu phải đối diện ngay với nỗi đau khổ của hai chị em của Lazarô. Trước hết dó là cuộc gặp gỡ với Matta. Bà bỏ nhà ra đón Đức Giêsu. "Khi Matta hay tin Đức Giêsu đến, bà chạy ra gặp Ngài, trong khi Maria ở lại nhà" A. Marchadour cảm nhận: Matta rời bỏ nhóm đám tang gồm Maria và các người Do Thái để đi gặp Đức Giêsu. Sự ra đi này đặt Matta vào một mối tương quan tin tưởng đặc biệt, trước mặt Đức Giêsu. "Nếu Thầy có ở đây, em con đã không chết" bà nói với Đức Giêsu như thế, vì biết Người có một sức mạnh rất hiệu lực để chống lại cái chết và sự hiện diện của Người có thể cứu Lazarô thoát chết. Bà cũng nhận biết Người có uy tín với Thiên Chúa nên lời cầu của Người sẽ tác dụng? "Nhưng con biết rằng, ngay cả bây giờ, Chúa sẽ ban cho Thầy bất cứ điều gì Thầy xin". “Em con sẽ sống lại" Đức Giêsu trả lời, bầng cách nhắc lại cho bà niềm tin của người Do Thái vào sự sống lại ngày sau hết. Matta không ngần ngại phụ hoạ vào niềm tin Irael ấy: "Con biết ngày tận thế em con sẽ sống lại”. Ở đây Đức Giêsu lại vượt qua một ngưỡng cửa mới. Ngưỡng cửa ấy là thuộc tính của Thiên Chúa: làm cho sống và làm cho chết. Đức Giêsu tự nhận. Ngài long trọng tuyên bố: "Ta là Sự Sống lại và là sự sống". Không cần phải đợi đến ngày tận thế. Cuộc sống mới là một thực tại hiện diện nơi Người ngay lúc này. Sự sống ấy được ban tặng cho ai tin vào lời Người. "Ai tin Ta, dù có chết, cũng sẽ sống. Và bất cứ ai sống mà tin Ta, sẽ không chết đời đời. "Con có tin không. Matta trả lời: Vâng thưa Thầy, con tin Thầy là Đấng Messia, là Con Thiên Chúa đến trong trần gian”. A. Marchadour bình luận "Ở đây Matta là khuôn mặt của kẻ tin nhận biết nơi Đức Giêsu sự xâm nhập của Thiên Chúa của người sống đến giữa con người. Ở đây Đức Giêsu còn hơn Êlia hoặc Êlisêô: Ngài được nhận biết là Đấng làm cho sống, theo hình ảnh của Thiên Chúa. Như thế, nhờ đức tin Matta đã hiểu rằng Đức Giêsu chính là Thiên Chúa đến giữa nhân sinh. Thực là hợp lý khi bà tuyên xưng Đức Giêsu trong căn tính của Người là Messia của Thiên Chúa (điểm tới của Do Thái giáo) và là Con Thiên Chúa. vì thế, bà qui tụ Do Thái giáo (Đức Messia) và Kitô giáo (Con Thiên Chúa). Rồi, đó là cuộc gặp gỡ với Maria, vẫn còn trong tang chế cả về thái độ lẫn lời lẽ: "Cô là một trong nhóm người Do Thái chịu tang chế". Ngay từ đầu trình thuật, cô vẫn chìm đắm trong tang chế với cái chết, cô tượng trưng cho con người bị sự chia lìa của cái chết đánh gục: Sự buồn bực thái quá đã cả ngăn cô ra đón tiếp Đức Giêsu, mạc khải của Thiên Chúa. 4. Và dấu chỉ hồi sinh của Lazarô. Xúc động sâu xa khi thấy Maria và những người Do Thái theo cô cũng khóc, Đức Giêsu lại xúc động khi đứng trước mộ của Lazarô bạn Người. - Dù đã tuyên xưng đức tin mạnh mẽ, Matta vẫn nghi ngại khi phải mở cửa mồ, bà thưa với Đức Giêsu: "Nhưng thưa Thầy, chôn đã 4 ngày rồi. X. leon Dufour lưu ý: khoảng thời gian 4 ngày chẳng phải là một lựa chọn ngẫu nhiên, nó liên hệ đến niềm tin dân giả cho rằng kể từ ngày thứ bốn linh hồn bay lởn vởn quanh xác chết nhưng không thể nhập vào được nữa. Lazarô phải thực sự chết và xác đã bắt đầu có mùi như thế mới biểu lộ được chiến thắng của Đức Kitô. Matta tức khắc ca ngợi vinh quang Thiên Chúa. Đức Giêsu bảo bà: "Thầy đã không nói với con rằng nếu con tin con sẽ thấy vinh quang Thiên Chúa sao?”. Theo lệnh Người, tảng đá che cửa mộ được mở ra, và lời cầu khẩn của Người quá vững chắc đến độ biến thành lời tạ ơn: Lạy Cha, Con ngợi khen Cha vì Cha đã nhận lời con. Theo lệnh truyền oai quyền của Người: Lazarô, hãy đi ra! Người chết ra khỏi mộ. Thần chết nắm giữ ông trong vòng tay tượng trưng bằng các giải băng, nay không còn chút quyền hành nào trước mặt Đức Giêsu, Người kết luận: Hãy cởi dây và để cho ông đi. Đức Giêsu đến từ xứ sở sự sống đã ở lại trong nhân tính bi đát nhất của Người, Đấng phá vỡ ranh giới chia Thiên Chúa - con người, sự sống - sự chết. Cái chết của Lazarô mà Maria và các người Do Thái coi như kết thúc ở đây trở thành một thoáng qua; các Kitô hữu đầu tiên, những người tuyên xưng chờ đợi lâu dài của Israel đã hoàn tất nơi Đức Giêsu Đấng được Cha Người phong làm Đức Chúa, đã cảm nghiệm rằng cái chết vẫn còn ảnh hưởng tới các bạn hữu của Đức Giêsu; khi cái chết đe doạ, Đức Giêsu và Người đến quá trễ không ngăn được thân xác huỷ hoại, tang chế và nỗi buồn. Trước những lời chất vấn này, trình thuật đề nghị một lời giải đáp bằng mượn lối văn kể chuyện để chuyển đạt một giáo huấn khá gần với giáo huấn của Phaolô trong thư thứ nhất giở dân thành Thesalonica. Truyện kể chấm dứt, để lại độc giả - và cả chúng ta hôm nay - đối diện với Lazarô, đang sống, nhưng câm nín không nói gì về những gì ông đã cảm nghiệm, sự im lặng của ông buộc mỗi người chúng ta phải tự xác định mối quan hệ của mình với Đức Giêsu, trọng tâm của câu chuyện đi đến cái chết và sự phục sinh của Người. Còn về những người Do Thái, trong khi có nhiều người trong bọn họ tin vào Người, có vài kẻ đến tìm những người biệt phái và kể cho họ nghe những điều Người đã làm. Tiến trình tiếp diễn, sẽ dẫn đưa Đức Giêsu tới đồi Canvê nơi Người dâng hiến mạng sống để ban sự sống thật cho tất chúng ta là những Lazarô. BÀI ĐỌC THÊM: 1. Lớn lên trong đức tin (N. Quesson, Les entretiens du dimanche A. Droguet et Ardant). Trong câu chuyện này, cả Matta lẫn Maria đều được mời gọi tiến triển thêm. Matta đã có đức tin ở một mức độ nào đó, đức tin Do Thái: "Con biết rằng em con sẽ sống lại vào ngày tận thế. Đức Giêsu mời bà tiến thêm một bước: "Ta là sự sống lại và là sự sống. Con có tin điều đó không. Phải tiến từ đức tin vào sự sống lại ngày tận thế đến đức tin vào lời Đức Giêsu Đấng ban sự sống ngay hôm nay cho ai tin vào Người. Đó chính là mục đích của phép lạ này: "Lạy Cha, Con tạ ơn Cha đã nhận lời Con. Con nói ra đây chính là để cho đám đông chung quanh Con đây tin rằng Cha đã sai Con”. Kết thúc cuộc khám phá về Đức Giêsu, và để chuẩn bị cho việc tuyên xưng đức tin, chúng ta đã cùng Matta và Maria lãnh nhận bài giáo lý cuối cùng. Những người xứ Samaria đã nhận biết Người là Đấng Cứu Độ trần gian... người mù bẩm sinh đã nhận Ngài là Con Người... Matta và Maria đã tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa. Đối với nhiều trẻ em, những thanh niên và cả lứa tuổi trường thành, Đức Giêsu trước hết là một người bạn như thuở ban đầu Matta và Maria đã nhận biết. Có phải vào ngày phục sinh, ta sẽ tiến triển trong đức tin khi nói lên, không chỉ bằng môi miệng mà bằng cả một cử hành tạ ơn: "Vâng, lạy Chúa, Người là Đức Kitô, Đấng Messia, Con tin Nguớì là Con Thiên Chúa, Đấng đã đến trong thế gian... Hôm nay, con muốn xin Người đến lấp đầy lổ hổng của hữu thể con bằng Xác Thể hằng sống của Người, lương thực chân thật cho đức tin của con". 2. Từ “Phục Sinh” của Lazarô đến phục sinh của Đức Giêsu (Missel Communautaire). Phép lạ đặt ngay trước cuộc khổ nạn của Đức Giêsu đã tiên báo cái chết và sự phục sinh của Người. Thực vậy nếu Lazarô rút tay chân bị trói ra khỏi giải băng và khuôn mặt bị che phủ khỏi tấm chăn liệm, điều đó nhắc nhở một cách đầy biểu tượng rằng ông vẫn còn là một người phàm hay chết. Đức Giêsu sẽ thoát ra vào ngày Phục sinh như một người bất tử, được vĩnh viễn giải thoát khỏi sự chết. Nơi Đức Giêsu, sự sống đã khải hoàn. 3. Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa mở cửa mồ Nhìn thế giới ta sẽ thấy nó thật bệnh hoạn. Sự phát triển của phương Bắc đã bị xét lại về sự coi thường môi trường và những nguy cơ nó gây ra cho tương lai của hành tinh và cho những thế hệ tương lai. Sự phát triển ấy càng bị chống đối khi ta nhìn thấy những người nghèo mới, số những người bị loại trừ chẳng bao giờ có thể tái hội nhập. Sự phát triển ở phía Đông cũng thế, tàng sinh ra sự thù hận chủng tộc, bạo lực và nghèo khổ. Sự phát triển ở các nước thuộc thế giới thứ ba cũng bị công kích, vì nó không nuôi được dân trong vùng một cách đúng đắn, cũng không phân phối các sản phẩm cho công bình. Đức Kitô đã nói: "Căn bệnh này không đến nỗi chết, nhưng chỉ lành vinh danh Thiên Chúa" (Ga 11,4). Lời lẽ lạ lùng, ngược hẳn với cái nhìn đầu tiên của ta: Hẳn Người đã cảm thấy điều gì... Thực ra đã 4 ngày rồi... (Ga 11,39). Tuy nhiên đó là đức tin, là niềm hy vọng của ta. Thiên Chúa của ta là một Thiên Chúa sự sống. Thiên Chúa của ta là Đấng mở những nấm mồ. Đức Kitô của ta là Đấng, giữa đoạn đường từ làng tới nghĩa trang, đã bảo đảm cho ta vượt qua từ sự chết đến sự sống. Chúa của ta là Đấng kêu lên: Hãy đi ra. Người gọi chúng ta, những kẻ đang bị giam hãm. Người cởi trói và giải thoát ta khỏi mớ quần áo sự chết, khỏi các giải băng sợ hãi. Thế nên chiến đấu cho công lý trở thành có thể được Yêu thương là luôn luôn có thể được" Con người có thể gặp được nhân tính của mình: anh em không còn dưới áp lực của thân xác nhưng của thần linh vì Thánh Thần Thiên Chúa ở trong anh em (Rm 8,9). Thành viên của CCFD làm chứng về những điếu đó mỗi ngày. Tình liên đới, đắt giá lắm, nhưng là suối nguồn vui tươi. Sự phát triển rất phức tạp nhưng tiến tới là điều có thể được nếu ta biết hợp tác với nhiều người: các quốc gia, các tổ chức phi chính phủ, các xí nghiệp, các trung tâm nghiên cứu, tư nhân, các Giáo Hội. Mỗi người có thể tham gia theo cách của mình. Đối với chúng ta những kẻ tin, thì trong cố gắng của nhân loại ấy có dấu vết của Thiên Chúa trong lịch sử hoạt động: các con sẽ biết rằng Ta là Chúa khi Ta sẽ đem các ngươi ra khỏi mồ (Ez 37,13). Chính Thánh Thần của Đức Kitô và của Thiên Chúa Cha cho ta đủ năng lực chiến đấu chống lại tất cá sức mạnh của sự chết. Chính Người, một ngày kia, sẽ mở cửa đưa ta vĩnh viễn vào sự sống. 58. Phục sinh Lagiarô--Học Viện Giáo Hoàng Piô X Đà LạtCÂU HỎI GỢI Ý 1. Giai thoại này nằm trong văn mạch nào? 2. Làm sao giải thích lời quả quyết của Chúa Giêsu “Cơn bệnh này không đến nỗi chết, song nó làm vinh danh Thiên Chúa” (c.4)? 3. Phải hiểu thế nào việc Chúa Giêsu không muốn mau chóng đi phục sinh Ladarô và lời Người giải thích sự chậm trễ ấy? 4. Tại sao Chúa Giêsu xem cái chết của Ladarô như một giấc ngủ? 5. Phải cắt nghĩa thế nào sự bực dọc của Chúa Giêsu lúc đứng trước thây ma Ladarô, khi biết mình sắp cho ông sống lại (cc. 33 35.38) 6. Đâu là những yếu tố đặc trưng của tấn bi kịch này? 1. Việc phục sinh Ladarô xảy ra vào cuối sứ vụ công khai của Chúa Giêsu. Phép lạ này, dấu chỉ sau cùng mà Người ban cho dân Do thái trong cuộc tranh tụng giữa ánh sáng và tối tăm, cũng là dấu chỉ quan trọng nhất, vì đây không còn là việc chữa lành hay hóa bánh ra nhiều, mà là phục sinh kẻ chết, quyền năng mà chỉ mình Thiên Chúa có được. Đúng như Phaolô sau này sẽ nói với tín hữu thành Côrintô: “Kẻ thù cuối cùng bị đánh bại, chính là sự chết” (1Cr 15,26). Việc phục sinh Ladarô mở màn cho diễn từ giã biệt và cuộc Tử nạn, vì, theo thánh Gioan, chính việc này thúc đẩy Hội đồng Công tọa dứt khoát quyết định lên án tử hình Chúa Giêsu. Người Do thái đã “thích tối tăm hơn ánh sáng vì công việc của họ xấu xa” (Ga 3, 19). Vị trí trung tâm của phép lạ trong Tin Mừng thứ tư đã khiến nó trở thành chìa khóa để hiểu thần học của thánh Gioan. Bởi đấy chúng ta sẽ nghiên cứu nó trong viễn ảnh này. 2. Khi được báo tin Ladarô ốm liệt, Chúa Giêsu đã nhận định: “Cơn bệnh ấy làm vinh danh Thiên Chúa“. Nhận định này giống câu Người đã trả lời cho các môn đồ về vấn đề tật nguyền của anh mù bẩm sinh: “Đó là để nơi nó công việc của Thiên Chúa được tỏ hiện” (9, 3). Vinh quang Thiên Chúa phải chăng là một danh dự ích kỷ phải trả cho Ngài dù phải gây thiệt thòi cho tạo vật! nếu cần thiết? Không! Khi Thiên Chúa biểu lộ vinh quang trong Cựu ước, thì luôn luôn là vì phần rỗi của dân Ngài, của những kẻ Ngài thương mến. Và như xưa đã giải phóng dân khỏi cảnh tù đày khốn khổ chết chóc bằng những hành động hiển hách, ngày nay Thiên Chúa cũng biểu lộ sự hiện diện và cứu độ của ngài trong con người Chúa Giêsu như vậy. Đó chính là mục đích sứ mệnh của Chúa Con. Vâng, “Thiên Chúa đã yêu mến thế gian đến nỗi đã ban Con Một Ngài, để tất cả những ai tin vào Người sẽ không hư mất nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16; x. 6, 39). Vinh quang này của Thiên Chúa Cha sẽ được thực hiện qua việc tôn vinh Chúa Giêsu. Thật ra, nó đã bày tỏ qua vinh quang của Chúa Giêsu trong các phép lạ Người làm rồi (2, 11; 12, 41) vì cả hai vinh quang không tách rời nhau. Nhưng động từ “tôn vinh” có một ý nghĩa rất là chính xác khi Gioan áp dụng vào Chúa Giêsu: nó có nghĩa là việc nâng Người lên trên thập giá, việc Người chết và sống lại (12, 23- 32). Một khi được tôn vinh như thế, Chúa Giêsu sẽ ban cho chúng ta ơn cứu độ của Thiên Chúa và thâu họp các con cái Thiên Chúa tản mác khắp bốn phương (11, 52); vì bấy giờ thủ lãnh thế gian này bị đánh bại, thế gian sẽ bị xét xử. Vinh quang mà Chúa Giêsu tỏ hiện trong các công việc của người chỉ là dấu hiệu của việc tôn vinh người trên thập giá. Các câu kế tiếp sẽ xác quyết điều này. 3. Chúa Giêsu còn ở lại đó hai ngày nữa, như đã chờ đợi trước khi lên Giêrusalem dự lễ Lều trại (7,8-10), như đã chẳng lập tức chiều theo ý muốn của mẹ Người trong tiệc cưới Cana. Người hành động, Người quyết định không theo ước muốn nhân loại, dù ước muốn đó thật chính đáng, nhưng theo thánh ý Chúa Cha (4, 34; 7, 18; 8, 29). Người nói và làm vì vinh quang Cha, vì muốn thực hiện chương trình cứu độ của Ngài. Và ơn cứu độ của Thiên Chúa sẽ được hoàn tất vào thời gian ấn định, không ai có thể hối thúc cho mau đến giờ người ta không thể bắt giữ hoặc ném đá Chúa Giêsu khi giờ Người chưa đến (7, 30; 8, 20). Lời Người trả lời cho các môn đồ trong c.9- 10 có nghĩa ấy như trong giai thoại anh mù bẩm sinh vậy (9, 4). Bằng một câu tục ngữ mà ai cũng biết, Chúa Giêsu giải thích cho môn đồ hay là đến Do thái không thể làm gì chống lại được Người. Như mới đây Người đã xác quyết: “Chẳng ai cất mạng sống Ta được, nhưng chính Ta tự mình thí mạng sống Ta. Ta có quyền thí mạng sống Ta, và cũng có quyền lấy lại” (10, 18). Đêm tối sẽ đến vào đúng thời gian Chúa Cha ấn định; đó sẽ là giờ Satan và Hội đồng Công tọa bề ngoài xem ra chiến thắng nhưng thực tế lại khác hẳn (13, 2; 14, 30- 31), vì Chúa Giêsu là ánh sáng trần gian và tối tăm không thể triệt hạ được người (15). Trong 12, 35- 36, Chúa Giêsu khai triển chung một hình ảnh đó khi khuyến cáo thính giả hãy lợi dụng ánh sáng ban ngày, như chính người đã làm, để tôn vinh Thiên Chúa bằng cách tin vào Đấng Ngài sai đến. Đợi đêm về, thì đã quá muộn. Trong Cựu ước, Giêrêmia cũng đã ngăm đe dân Israel không chịu nhìn nhận tội mình (Gr 13, 16). Tôn vinh Thiên Chúa, là trở về với Thiên Chúa đích thực, Đấng còn có thể cứu Giêrusalem khỏi cảnh đổ nát hoang tàn. Khốn thay Israel đã không vâng nghe lời mời gọi đó, và vì thế đã bị lưu đày. Cũng một thể thức ấy, dân Do thái đã chẳng lắng nghe tiếng Chúa Giêsu mời gọi: cái chết của Người kỳ thực là cái chết của chính họ, “vì các ngươi sẽ chết trong tội của các ngươi” (8, 21- 24). Môn đồ đã tiên cảm cái kết cục bi đát đó. “Người Do thái muốn giết Thầy, mà thầy còn lên đấy nữa sao?”. Cứu Ladarô, đối với Chúa Giêsu, sẽ là đi nộp mình chịu chết. Vinh quang của phép lạ này sẽ là dấu chỉ sự tôn vinh người trên thập giá. Nhưng tất cả cơ sự ấy chẳng phải là giờ của Thiên Chúa sao? Không ai có thể hối thúc, trì hoãn hoặc thay đổi thế này thế kia, một khi Thiên Chúa quyết định tỏ lộ tình yêu của Ngài. Chúa Giêsu còn ở lại hai ngày nữa và ngày thứ ba sẽ lên đường, như Người sẽ sống lại vào ngày thứ ba trong vinh quang Chúa Cha vậy. 4. “Ladarô bạn chúng ta đang nghỉ yên, Ta phải đi đánh thức dậy“. Chúa Giêsu đã áp dụng cho Ladarô thành ngữ người đã dùng đối với con gái ông Giairô (Mc 5, 39). Phaolô sẽ dùng một kiểu nói tương tự đối với người thiếu niên thành Troas (Cv 20, 10). Trong Thánh Kinh, chết là hậu quả của tội lỗi, và vì thế là hình phạt khủng khiếp nhất (St 2,7; Kn 1, 15). Tuy nhiên, cái chết mất đi một phần tính cách bi thảm khi nó kết thúc một cuộc sống hạnh phúc và tràn đầy, một cuộc đời thân tình với Thiên Chúa. Các tổ phụ qua đời với tuổi thọ, và đã được gặp lại tổ tiên (St 25,7; 35, 29) Đavít đã an nghỉ với cha ông của mình (1 V 2, 10). Đối với người công chính, cái chết cũng có thể là cuộc trở về trong bàn tay Thiên Chúa, là sự yên nghỉ trong bình an (Kn 3, 1- 3). Thiên Chúa không bao giờ bỏ rơi kẻ Ngài thương mến. Chúa Giêsu, dấu chỉ của tình yêu Thiên Chúa, là Đấng giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi và sự chết. Vì thế, trong Tân ước, những kẻ chết trong niềm tin vào Chúa Kitô, chỉ ngủ mà thôi. “Những ai yên nghỉ trong Chúa Giêsu, Thiên Chúa sẽ đem họ về với Ngài” (1Tx 4, 14; x. Cv 7, 60; Mt 27, 52), vì “Chúa Ki-tô đã phục sinh từ cõi chết, như hoa quả đầu mùa của những kẻ đã nghỉ yên” (1Cr 15,20). 5. Maria và các người Do thái khóc nức nở, theo thói tục của phương đông. Trước nỗi đau khổ đó, Chúa Giê-su có một thái độ thật đầy tình người: “Các ngươi đặt ông ấy ở đâu?” và Người bật khóc. Bấy giờ dân chúng biết Chúa Giêsu thực sự yêu thương Ladarô. Tuy nhiên, lối cắt nghĩa này, dù không hoàn toàn sai, có phải là lời giải thích đúng nhất không? Thường thường, trong Tin Mừng thứ tư, những kẻ cắt nghĩa lời nói hay hành động của Chúa Giêsu chỉ hiểu một khía cạnh, ngoại tại nhất và sơ sài nhất, của mầu nhiệm Người. Hơn nữa, nếu sắp cho người bạn sống lại, tại sao Chúa Giêsu lại khóc? Câu chuyện này rất giống với một câu chuyện khác trong đó Tin Mừng cũng kể lại là Chúa Giêsu đã khóc: khi Người đã tới gần, trông thấy thành, thì Người khóc trên thành mà rằng: “Phải chi ngày hôm nay, cả ngươi nữa, ngươi cũng nhận ra sứ điệp bình an! Nhưng khốn thay, điều đó đã bị che khuất khỏi mắt ngươi” (Lc 19, 41). Vì đoạn văn song song đầy ý nghĩa này, hình như ở đây nguyên nhân khiến Chúa Giêsu khóc là lòng bất tín của người Do thái và niềm tin nửa vời của Mátta (c.39) và của Maria xét theo văn mạch tình thuật Gioan. Cách giải thích này được củng cố thêm nhờ nhiều ghi chú khác của Gioan liên quan đến tâm tình của Chúa Giêsu trong dịp này. Ở đây ngữ vựng được dùng thật đầy ý nghĩa. Thánh sử còn dùng hai chữ khác để mô tả tâm tình của Chúa Giêsu. “Người bực dọc tâm thần và xao xuyến cả mình“. Người ta đã luôn thắc mắc về ý nghĩa các tâm tình đó. Có kẻ xem đấy là cơn giận của Chúa Giêsu đối với cái chết và tác giả của nó là Satan; số khác lại coi là cơn tức giận trước sự cứng lòng tin của người Do thái. Điều đó có thể được lắm, vì cái chết và sự cứng lòng tin đều quy về Satan như là nguyên nhân tác thành; quả thế, đặc biệt trong Mt, ta thấy Chúa Giêsu đã tỏ ra tức giận lúc Người trừ quỷ, nghĩa là lúc đối diện với Satan. Nhưng đây còn hơn thế nữa. Không kể một lần sử dụng trong 5,7 chỗ nói về nước ao bị giao động (tarassô), động từ thứ hai được dùng ở đây đối với Chúa Giê-su (xao xuyến: etelraxen) thì aoriste của tarassô) chỉ gặp lại trong văn mạch cuộc Tử nạn hai lần được áp dụng cho Chúa Giêsu (12, 27; 13, 21) và hai lần áp dụng cho các môn đồ (14, 1.27) mà Chúa Giêsu đoan hứa sẽ không để xao xuyến vì việc Người ra đi. Sự xao xuyến và nỗi ghê sự của Chúa Giêsu trong cuộc hấp hối tại vườn Cây dầu mà các Tin Mừng Nhất Lãm đã ghi lại, hình như được Gioan chuyển vào cảnh này và vào cuộc gặp gỡ giữa Người với nhóm Hy lạp (12, 27). Đối với Chúa Giêsu, cái chết của Ladarô là dấu tiên báo về cái chết của chính Người và về cuộc chiến thắng tạm bợ của tối tăm. Ở đây, lời giải thích thứ hai này trùng phùng với lối giải thích trên kia trong một tổng hợp tuyệt diệu. Vì đối với Gioan, cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Giêsu cốt yếu là công việc của Satan. Do đó, khỉ nói về Giuđa sắp phản bội Thầy, Gioan ghi chú: “Lúc bấy giờ, sau miếng ăn, Satan đã nhập vào y“. (13, 27) 6. Trình thuật này là trình thuật phép lạ dài nhất của Tin Mừng Gioan và dĩ nhiên của tất cả các Tin Mừng: 45 câu. Tuy nhiên, phép lạ chỉ được thực hiện vào phút cuối, còn mọi phần trước đều là chuẩn bị. Một thảm kịch thực sự tuần tự diễn ra trước mắt chúng ta, độ căng thẳng leo thang dần với số câu, và tất cả chỉ được giải kết ở hồi cuối cùng: mặc khải vinh quang Thiên Chúa, một mặc khải đòi buộc phải đáp trả bằng niềm tin. Thảm kịch này có hai yếu tố đặc biệt: a- Nhân vật chính không phải là người mà thiên hạ chờ đợi tức Ladarô. Lúc đầu, ông chỉ được đề cập như là em của Mátta và Maria, và sau hết, dĩ nhiên người ta nhắc đến ông song để rồi lãng quên. Ta chẳng biết cuối cùng ông có tin như người mù từ thuở mới sinh hay không (9, 38). Sở dĩ ông đóng một vai trò, là đặc biệt để làm chất xúc tác hầu mặc khải cá tính của mỗi diễn viên. Nhân vật chính dĩ nhiên là Chúa Giêsu; và đối diện Người, ta thấy lần lượt xuất hiện các môn đồ, Mátta (Maria vẫn là một nhân vật phụ tùy) và người Do thái. Trước tiên là các môn đồ, những kẻ phần dấn bước trong đức tin vì đang bị cầm chân trong nỗi sợ hãi và lý luận loài người (11, 15). Rồi Mátta, đã được nhắc đến ở cc.1-5, xuất hiện với vẻ phiền muộn và đầy hy vọng; bà cũng được mời gọi tiến đến niềm tin. Sau hết, các người Do thái, đã được loan báo trong cảnh trước đấy (11, 19), cũng góp phần vào việc khởi phát phép lạ và cũng được dẫn đến đức tin. Như thế mỗi người đều lần lượt đi vào sân khấu và vẫn ở lại sau khi đóng xong vai trò, khiến sau cùng tất cả có mặt trong giờ giải kết. Tuy nhiên, mọi đèn chiếu đều chĩa thẳng vào các người Do thái (11, 45): họ là những người đầu tiên được thảm kịch này chất vấn, mời gọi. b- Trong các phép lạ khác của Tin Mừng Gioan, thường có một diễn từ đến sau để bổ túc hành động và mặc khải ý nghĩa của nó (xem Phép lạ người bất toại, Bánh hóa nhiều, Kẻ mù bẩm sinh). ở đây chẳng thấy diễn từ nào tiếp theo cả, nhưng có nhiều câu tuyên bố được xen kẽ đó đây y trong trình thuật (cc. 4. 9- 10. 14- 1. 20-27. 40-42). Các lời đối thoại ấy chuẩn bị cho dấu chỉ, chính xác ý nghĩa của nó, và do đấy đóng vai trò của một diễn từ. Độc giả có thể hiểu được hành động khi nó tuần tự diễn ra, như lúc một người chú giải cắt nghĩa diễn tiến của một nghi lễ phụng vụ. Phần tiếp theo của phép lạ, thay vì là lời của Chúa Giêsu, lại là một cảnh diễn ra trong Hội đồng Công tọa: người ta lên án tử hình Chúa Giêsu! CHÚ GIẢI CHI TIẾT “Có một người ốm liệt, ông Ladarô”: Chúng ta chẳng biết nhân vật này ở nơi nào khác nữa, và hình như các độc giả Tin Mừng cũng không, vì ông được gọi như là em của Matta và Maria. Tuy nhiên, ông mang một cái tên tiền định mà trong tiếng Hy bá có nghĩa: “Thiên Chúa đến cứu giúp“, và, đàng khác ông là bạn của Chúa Giêsu. “Người Bêtama“: Chắc chắn đây là ngôi làng mà ngày nay vẫn còn tồn tại với mỹ danh “El Azarich” (tiếng rút từ chữ Ladarô), cách Giêrusalem quãng 2km, và là nơi người ta còn thấy ngôi mộ của Ladarô đục sâu trong đá. “Làng của Maria và Matta chị bà“: Vì tác giả không nói gì đặc biệt về hai phụ nữ này, nên phải giả thiết là độc giả đã biết nhiều về họ. Người ta đã sớm đồng hóa họ với hai phụ nữ được nhắc đến trong lúc 10,38-42. Hình như họ có cùng một tính tình: Matta hoạt động, lanh lẹ, chủ gia đình; Maria trái lại trầm tư, chiêm niệm hơn, thường bị chị xỏ mũi. Luca không nói tên nơi xảy ra cảnh đó; cũng có thể là Bêtania lắm, nhưng chẳng có gì cho phép ta đồng hóa một cách chắc chắn nhân vật của hai câu chuyện. “Maria là người đã xức dầu thơm cho Chúa“: Hành động này được kể lại ở thì quá khứ, vì tác giả nhìn từ thời gian biên soạn, nên sự kiện này là một sự kiện đã qua. Nhưng ông lại tướng thuật việc xức dầu ở chương 12, khi Chúa Giêsu sẽ trở về Bêtania, sau một thời gian rút vào sa mạc Ephraim. Không có gì cho phép quả quyết đây là người đàn bà tội lỗi mà Luca kể lại trong 7, 36tt. “Chúa Giê-su yêu mến Matta cùng em bà và Ladarô“: Câu này đính chính một lối giải thích sai lầm có thể có, dựa trên sự kiện Chúa Giêsu hãy còn nán lại thêm hai ngày nơi Người đang ở, dù đã nghe tin Ladarô đau liệt. “Ngày không phải có 12 giờ sao“: Dù có vẻ tượng hình và hai bí nhiệm, câu trả lời của Chúa Giêsu thật rõ ràng. Bao lâu chưa đến giờ hoàng hôn? bấy lâu chưa có gì phải sợ; người ta có thể an toàn bước đi cho đến hết thời hạn 12 giờ của ngày. Nói cách khác, Người phán cùng các môn đồ vốn đang kinh hãi khi thấy Người lên Giêrusalem đáng sợ trước, chưa đến giờ nguy hiểm đâu!”. “Và chúng ta cũng hãy đi qua đế chết với Người“: Ngược lại với lối giải thích thông thường, hình như chữ với Người” ám chỉ Ladarô, vì người ta vừa mới nói trong câu trước đó là Ladarô đã chết và Chúa Giêsu đã kết luận: chúng ta hãy qua gặp ông ấy. Trong trường hợp này, Tôma nói cách đơn sơ: nếu Người muốn đi bất cứ giá nào, thì chúng ta hãy tháp tùng theo để chung số phận với Lađarô là kẻ đã chết. “Đã được chôn 4 ngày rồi”: Vì khí hậu ở phương đông, nên người chết được chôn trong cùng ngày chết (Ga 11, 39; Cv 5, 6). Chữ “4 ngày” có một tầm quan trọng trong trình thuật người Do thái thời Chúa Giêsu tin rằng trong 3 ngày đầu tiên, hồn vía hãy còn lảng vảng bên thây ma; chỉ từ ngày thứ tư, lúc thây ma bắt đầu thối rữa, chúng mới bỏ mà di. Ngày thứ 4 là ngày chết thực sự. “Ta là sự sống lại“. Mấy chữ “và là sự sống” bị P45 cũng như một số thủ sao của truyền thống latinh và syria-sinai cũ xóa bỏ, cả Origène và Cyprien thỉnh thoảng cũng thế. Nhưng tất cả các thủ sao và các bản dịch khác đều giữ lại. Thành ra không có lý do gì để duy trì lối đọc vắn của BJ. “Hãy cởi ra cho ông ấy“. Đối với Ladarô, phải lăn hòn đá, cởi dải liệm; còn khi Chúa Giêsu phục sinh, các phụ nữ nhận định một sự kiện đã rồi: đá được lăn đi, các cuộn băng nằm dưới đất, còn khăn liệm được xếp lại ở một nơi riêng (20, 1 -7). Các thiên sứ chỉ đứng đó để giúp các môn đồ ý thức sự kiện mà thôi. “Nhiều người Do thái …đã tin vào Người”: Gioan không bảo bấy giờ Ladarô thế nào, cũng chẳng nói đến sự thán phục của các chứng nhân. Ông đưa ta đến điểm cốt yếu: nhiều người đã tin vào Chúa Giêsu. Đó là điều mà tác giả Tin Mừng mời gọi ta. KẾT LUẬN Chúng ta đã ghi nhận việc nhấn mạnh đến đức tin trong Tin Mừng thứ tư, sự căng thẳng tăng dần theo các chương giữa Chúa Giêsu, Đấng tự mặc khải chính mình trong các việc làm, và lòng cứng tin của người Do thái. Giai thoại hôm nay thường xuyên nhắc đến đức tin. Động từ “tin” được dùng 8 lần để chỉ việc con người đáp trả khi thấy vinh quang Thiên Chúa. Ladarô đã chết và được an táng từ 4 ngày rồi. Người Do thái hình như hoài nghi quyền năng của Chúa Giêsu. Matta và Maria thì nói với Người: nếu Thầy đã ở đây …”. Chứng cớ dứt khoát và không thể chối cãi mà người Do thái đòi hỏi (10, 24) giờ đây được ban cho họ. Ai có quyền trên sự sống, nếu không phải là chỉ mình Thiên Chúa? Chúa Giêsu làm phép lạ “để họ tin” rằng Chúa Cha đã sai Người. Như thế chấm dứt sứ vụ của Chúa Giêsu giữa người Do thái. Dấu chỉ này mặc khải một lần thay cho tất cả Chúa Giêsu là ai. Vì thế người Do thái đã lên án tử hình Người. Đối với Gioan, cuộc Tử nạn bắt đầu ngay sau phép lạ này với cuộc nhóm họp của hội đồng Công tọa và việc xức dầu ở Bêtania, dấu chỉ khâm liệm Chúa Giêsu. Chính phép lạ chuẩn bị điều đó. “Bệnh này … phải được nhằm để tôn vinh Con Thiên Chúa”. Việc phục sinh Ladarô là dấu chỉ của thực tại sẽ diễn ra trong các chương kế tiếp vậy. Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG 1. Trong thời đại chúng ta, nhan nhản những dấu chỉ của sự sống và sự sống lại, chẳng hạn việc hồi sinh con người mà chúng ta đã từng mục kích nhiều lần qua các cuộc chữa bệnh thành công, là những dịp cho thấy cơ thể nhân loại có một sinh lực mãnh liệt chừng nào. Và ta phải nói gì về cuộc chiến thắng lạ lùng của sự sống trên sự chết như là việc sinh sản, rồi việc phát triển con người nên vóc trưởng thành? Trong các thành công về kỹ thuật, nhà bác học đã vượt qua nhiều khó khăn mà trước đây không thể khắc phục. Trong các lựa chọn dứt khoát, mỗi người chúng ta đều đã lướt thắng các cám dỗ bi quan, thất vọng. Tất cả chỉ vì trong con người có một khát vọng sống, có một động lực không ngừng thúc đẩy đi lên. Nhưng đồng thời trong nhân tính chúng ta có một cái gì đó đã bị đổ vỡ. Cái chết bắt chúng ta đương đầu với một giới hạn có thể bẻ gãy chúng ta. Gioan gợi lên nỗi thất vọng, sự ê chề của kinh nghiệm, các giới hạn của con người. Những câu Chúa trả lời: “Hỡi Ladarô, hãy đi ra” mời gọi tất cả lướt thắng các giới hạn đó. Bằng giáo huấn, cuộc sống, cái chết và sự sống lại của mình, Chúa Giêsu cho thấy Người có thể khơi dậy sinh lực nào trong con người. Nhưng Người chỉ hành động trong những ai, khi đối diện với sự chết, biết để cho sức mạnh Thần khí đến “lay tỉnh” mình dậy. 2. Sự can thiệp của Chúa Giêsu cho thấy Thiên Chúa không phải là một Đấng vô biên xa vời, dửng dưng với tạo vật. Thiên Chúa đã nhập thể trạng một trái tim con người, Ngài cũng muốn có khả năng cảm xúc, bồi hồi, xót dạ? “Chúa Giêsu xao xuyến tâm thần”. Ngài cho thấy mình cũng chạnh lòng trước số mệnh thế nhân. Người yêu thương các bạn hữu với tình âu yếm. Bởi đấy Người ra tay uy quyền cho Ladarô sống lại. 3. Hãy lưu ý đến lời Matta đáp trả câu hỏi của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu hỏi: “Con có tin điều đó không?” nghĩa là có tin rằng kẻ tin vào Ta sẽ sống mãi và không bao giờ chết chăng. Người hỏi Matta về một điều gì có, về niềm xác tín được sống của bà. Matta đã trả lời nhắm vào con người Chúa Giêsu. Bà không đáp: “Vâng, con tin rằng con sẽ không chết, nhưng “Con tin Thầy là Chúa Kitô, Con ‘Thiên Chúa”. Chắc hẳn vì lời tuyên xưng đức tin đó (mà các môn đồ chừng nghe) mà Chúa Giêsu tuyên bố với các sứ đồ của Người, khi đến Bêtama, rằng Người đã vui mừng hoan lạc. Chúa Giê-su đã muốn có giai thoại phục sinh Ladarô để các chứng nhân tin Người là Đấng được Chúa Cha sai đến. Điều đó cho ta thấy niềm tin của Kitô hữu không phải là niềm tin vào các sự vật, dù là vào một thế giới được tái lập trong sự công chính nguyên thủy, nhưng là niềm tin vào con người Chúa Giêsu Kitô Con Thiên Chúa. Niềm tin vào Chúa Giêsu tuyệt đối ưu tiên, sau mới đến những điều khác. 4. Sở dĩ Chúa Giêsu phục sinh Ladarô, là vì người là Lời sáng tạo của Thiên Chúa, tuy nhiên Người cũng sắp chết. Chúa tể sự sống sắp lụy phục tử thần … và đối thủ của người sẽ không quên nhấn mạnh nét mâu thuẫn đó trong sự nghiệp của Người: “Nó đã cứu được kẻ khác mà không thể cứu nơi chính mình“. Nhưng Chúa Kitô đã chẳng muốn cứu lấy một mình mà thôi. Khi mặc lấy thân phận con người chúng ta cho đến cái chết, lời sự sống của Người không còn ở ngoài chúng ta nữa. Người chiến thắng tử thần qua cái chết. Như thế, Người đã cứu rỗi tất cả nhân loại cùng với chính bản thân Người. 5. Hoạt động của con người bị hạn chế và thường thất bại. Song các giới hạn và thất bại này không thể triệt hạ sự tự do của kẻ tin vào Chúa Kitô. Cái chết đặt một giới hạn rõ rệt cho sự sống của con người, nhưng đức tin của Kitô hữu vượt qua giới hạn đó. Người Kitô hữu đã ở bên kia cái chết. Chắc chắn, sự chiến thắng cái chết mà Chúa Kitô đạt được cho ta không miễn cho ta chết như Người. Kitô hữu không phải là kẻ giảm thiểu hay đánh bóng sự chết. Đối với họ cũng như đối với Ladarô, cái chết không thơm tho gì. Và chẳng có hương thơm (thánh thiện hay đạo đức nào) có thể ru ngủ sức kháng cự của con người đối với cái chết. Tuy nhiên Kitô hữu tin tưởng vào Thiên Chúa như Chúa Kitô đã tin tưởng vào Chúa Cha, vì biết rằng Ngài luôn nhận lời mình xin. Ngài là vị Thiên Chúa hằng yêu con người và muốn con người sống để tôn vinh Ngài. Tin vào tình yêu Thiên Chúa tỏ hiện trong Chúa Kitô tức là đã phục sinh và đã được bảo chứng sẽ sống mãi. 59. Sự sống mới--Lm Trần Bình TrọngPhụng vụ Lời Chúa hôm nay khơi dậy trong ta cái cảm giác hy vọng ngay trong Mùa Chay khi ta suy niệm về sự thương khó và tử nạn của Chúa. Ta biết điều đó phải đến như vậy vì đời sống và sứ vụ của Chúa không thể nào chỉ được kết thúc trong cảnh tử nạn mà thôi. Trung tâm điểm của Mùa Chay không phải là Thứ Sáu Chịu Nạn mà là Chúa Nhật Phục Sinh khi ta đón mừng cái tiêu điểm của sứ điệp Kitô giáo: Chúa đã sống lại như Lời Người đã phán hứa. Tuy nhiên trong lễ nghi phụng vụ Giáo Hội nhắc nhở cho ta trong Mùa Chay về cuộc khổ hình và tử nạn của Chúa Kitô hầu giúp ta tìm ra ý nghĩa cho đời sống. Vì thế ta có thể có cái nhìn lệch lạc, nghĩa là chỉ nhìn đến những đau khổ của Chúa, mà quên đi cuộc phục sinh khải hoàn của Người. Do đó ta cần nhận thức rằng những mầu nhiệm trong đời sống và sứ vụ của Chúa, không phải chỉ kết thúc ở cuộc tử nạn mà thôi. Trong lễ nghi phụng vụ, ta cần nhắc nhở cho mình về cuộc phục sinh của Chúa. Ta cần ghi nhớ lại mỗi biến cố trong cuộc đời cứu chuộc: khổ giá, tử nạn và phục sinh của Chúa là một phần của toàn bộ chương trình cứu chuộc. Cái chết của Lazarô và việc ông được cho sống lại trong Phúc âm hôm nay tiên báo cái chết và phục sinh của Chúa. Mặc dầu có những điểm tương đồng giữa hai cái chết và hai cuộc phục sinh, ta vẫn thấy có một sự khác biệt lớn. Cái phẩm chất của sự sống mới được phục sinh nơi Lazarô không thể nào được so sánh với cuộc phục sinh nơi Chúa Kitô, vì chính Người là sự sống lại và là sự sống. Việc Lazarô bước ra khỏi mồ chưa phải là lúc có thể chia sẻ cuộc sống sung mãn với Chúa. Cuộc sống sung mãn dành cho người Kitô giáo là cái chìa khóa giúp ta hiểu cuộc đối thoại giữa hai chị em Marta và Maria trong Phúc Âm hôm nay về cuộc sống vĩnh cửu. Do đó Lazarô phải chết đi một lần nữa mới có thể tiến tới cuộc sống vĩnh cửu và sung mãn. Cái cuộc sống mới vĩnh cửu mà Chúa nói với Marta và Maria là cuộc sống siêu việt và sung mãn không bị ảnh hưởng bởi tử thần. Cuộc phục sinh của Chúa phải hướng dẫn tư tưởng hằng ngày của ta trong lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa là Đấng từ ngày này qua ngày khác thấm nhuần đời sống ta bằng sức sống mới. Cuộc phục sinh của Chúa phải đánh dấu cái việc khởi đầu cho cuộc biến đổi của tất cả những ai coi cuộc sống đời này là khó khăn, vất vả, nặng nhọc. Cuộc sống phục sinh không phải là cái gì ta có thể nhìn lại vì ta chưa có kinh nghiệm đạt tới, nhưng là cái gì ta đang nhìn tới với niềm hi vọng. Chính niềm hy vọng đó mà ngay cả với những ngày xuống tinh thần sẽ đem lại niềm vui và ý nghĩa cho đời sống. Con người ta sinh ra để mà chết. Nhưng con người cũng sinh ra với cái ước muốn gọi là hy vọng. Đối với người tín hữu, Chúa Kitô là hy vọng của ta. Đưa cái tư tưởng hi vọng vào lúc gặp khó khăn thử thách không phải chỉ dành riêng cho người Kitô giáo mà thôi. Như ta học biết trong bài Thánh Kinh Cựu Ước hôm nay, Tiên Tri Ê-dê-ki-en cũng đã nhắc nhở cho người Do Thái trong cuộc lưu đầy là họ sẽ được sinh tồn như là một dân tộc và một quốc gia mặc dầu với những khó khăn thử thách họ phải đương đầu. Lời Tiên Tri Ê-dê-ki-ên cho họ niềm hi vọng là họ sẽ được phục hồi sau cuộc lưu đầy, nghĩa là họ sẽ được giải phóng và cứu thoát. Tin vào điều đó có nghĩa là có hi vọng. Và cái hi vọng đó không phải chỉ hạn chế ở đời này mà thôi. Đó là điều mà Thánh Phaolô nhắc nhở người tín hữu: Còn anh em, anh em không thể sống cho xác thịt, nhưng la sống theo thần trí (Rm 8,9). Sống theo thần trí có nghĩa là mở rộng tâm hồn mong mỏi đến một đời sống sung mãn và vĩnh cửu của Chúa Kitô. Và cái đời sống vĩnh cửu sung mãn này có tính cách vượt qua thời gian và không gian. Cái niềm hi vọng vào cuộc sống sung mãn vĩnh cửu sẽ tạo cho người tín hữu cái niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống, mặc dầu phải trải qua những ngày đen tối. Niềm hi vọng hay cậy trông là một nhân đức đối thần. Cũng như đức tin và đức ái, đức cậy trông phải thấm nhập vào tất cả đời sống của người tín hữu. Đức cậy trông phải được thể hiện trong cuộc sống hàng ngày. Mặc dù với những bệnh tật, đau khổ, thất vọng, chán chường, người tín hữu có đức cậy trông vẫn giữ vững niềm cậy trông vào Chúa. Người tín hữu được kêu gọi sống trong cậy trông bất chấp những thăng trầm của cuộc sống. Với niềm cậy trông, người tín hữu đi tìm Chúa và phụng sự Chúa với hi vọng rằng Chúa sẽ không bỏ rơi họ. Đức cậy trông theo Thánh Phaolô đưa dẫn ta đến đời sống trường sinh. 60. Thầy là sự sống--Đaminh Maria Cao Tấn Tĩnh"Hỡi Lazarô, hãy bước ra!" Mạc Khải "Thày là Sự Sống" cho chị em Matta và Maria. Nếu hai tuần III và IV của Mùa Chay thuộc Chu Kỳ Phụng Niên Năm A, Phúc Âm Thánh Gioan được Giáo Hội có ý chọn đọc về trình thuật Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là "Đường Lối" cho phụ nữ Samaritanô ngoại lai, và Người là "Sự Thật" cho người mù từ lúc mới sinh, thì tuần V này đến trình thuật Chúa Giêsu đã Mạc Khải Người là "Sự Sống" qua việc Người hồi sinh Lazarô từ trong cõi chết. Bởi vì, trong trình thuật hồi sinh Lazarô này, trước khi ra tay cải tử hoàn sinh, chính Chúa Giêsu đã tuyên bố với Matta: "Thày là sự sống lại và là sự sống: ai tin vào Thày thì dù có chết cũng được sống và ai đang sống mà tin vào Thày sẽ không bao giờ phải chết" (Jn 11:25-26). Phải, chính lời tuyên bố này của Chúa Giêsu là tột đỉnh Mạc Khải Chúa Kitô là "Sự Sống" trong trình thuật hồi sinh Lazarô của bài Phúc Âm hôm nay, cũng như lời Người tuyên bố "Ta là Đấng đang nói với chị/anh" (Jn 4:26; 9:37) trong trình thuật Người tỏ mình ra cho chị phụ nữ Samaritanô của Phúc Âm hai tuần trước, hay cho người mù từ lúc mới sinh của Phúc Âm tuần vừa rồi. Tuy nhiên, so sánh với hai lần tỏ mình trước, một cho người phụ nữ Samaritanô và một cho người mù từ lúc mới sinh, lần tỏ mình của Chúa Giêsu lần này hơi khác. Ở chỗ, hai lần trước Người từ từ dẫn con người đến việc nhận biết Người, tức Người tỏ mình ra sau, còn lần này Người tỏ mình ra trước khi hành động, tức là sau khi tự xưng "Thày là sự sống lại và là sự sống", Người mới ra tay chứng tỏ mình thực sự là như thế. Tại sao? Nếu không phải tại vì đối tượng của lần này khác với hai lần trước. Đối tượng của lần tỏ mình ra này không phải là một phụ nữ ngoại lai ở miền đất Samaritanô xa lạ, hay là một kẻ mù từ lúc mới sinh người Do Thái ở miền chính giáo Giuđêa, mà là một gia đình hết sức nghĩa thiết với Người (xem Jn 11:5) ở ngay Bêthania gần thành thánh Giêrusalem (xem Jn 11:18), địa điểm Vượt Qua của Người. Tuy nhiên, không phải vì thân thiết với Người mà Chúa Giêsu đã châm chước yếu tố nhân sinh cho chị em này, ngay trước giây phút tuyệt đỉnh của Mạc Khải, trước giây phút Chúa Kitô tỏ mình ra "Thày là sự sống lại và là sự sống". Như trường hợp của người phụ nữ Samaritanô và người mù từ lúc mới sinh, cả hai đã phải tỏ ra lòng thành khao khát và tìm kiếm chân lý của mình mới được Người tỏ mình ra cho biết thế nào, bà chị cả Matta trong gia đình ba chị em của người chết Lazarô cũng thế, cũng đã phải bày tỏ lòng mình đối với Người như sau: "Lạy Thày, nếu Thày có mặt ở đây em con đâu có chết. Dù thế, ngay lúc này đây, con tin chắc Thiên Chúa sẽ ban cho Thày những gì Thày xin". Nếu người phụ nữ Samaritanô ngoại lai, sau giây phút tuyệt đỉnh của Mạc Khải, đã chạy về loan báo cho dân làng của mình hay biết thế nào, và nếu người mù từ lúc mới sinh, sau giây phút nhận ra Đấng đã phục quang cho mình, đã tuyên xưng đức tin và phục xuống thờ lạy Người thế nào, Matta cũng thế, sau khi nghe Thày tự xưng "Thày là sự sống lại và là sự sống", đã tuyên xưng đức tin: "Vâng, Lạy Thày, con tin. Con đã tin rằng Thày là Đấng Thiên Sai, Con Thiên Chúa hằng sống, Đấng đến trong thế gian", rồi sau đó về nhà báo tin cho Maria em mình, người cũng bày tỏ lòng mình với Chúa Giêsu y như chị của mình, khi cô vừa gặp Người và qùi sụp xuống dưới chân Người mà thổn thức: "Lạy Thày, nếu Thày có mặt ở đây em con đâu có chết". Và chỉ sau lời thổn thức này của Maria, nhất là, như Phúc Âm cho biết, "khi thấy cô khóc, và những người Do Thái theo cô cũng khóc, tâm hồn Người cảm thấy bồi hồi xúc động. Người hỏi: "Các người chôn táng anh ta ở đâu?". Họ đáp "Thưa Thày, xin hãy đến mà xem". Chúa Giêsu bắt đầu khóc". Tại sao Chúa Giêsu lại khóc? Phải chăng vì Người không cầm được lòng khi thấy Maria khóc? Nhưng Maria sở dĩ khóc là vì Lazarô thân yêu của chị em cô đã chết, trong khi đó, Chúa Giêsu biết chắc chắn rằng Người có thể làm Lazarô cải tử hoàn sinh cho chị em cô! Vậy thì phải chăng động lực thúc đẩy Người khóc, cử chỉ hết sức hiếm hoi và đặc biệt được Phúc Âm lần đầu tiên ghi nhận, là vì, ngay lúc bấy giờ, Người nghĩ đến các linh hồn bất tử vô cùng cao quí nói chung, nhất là linh hồn của thành phần bạn thân của Người nói riêng, sẽ đời đời bị chôn vùi trong nấm mồ sự chết, không bao giờ bước ra khỏi ngôi mồ vĩnh tử này nữa, không còn nghe thấy tiếng gọi của Người nữa, khi Người lên tiếng gọi họ như đã gọi Lazarô "hãy bước ra khỏi mồ". Đúng thế, về phương diện tâm linh, con người tội lỗi trên đời này là một con người sống trong sự chết, một sự chết, đối với Chúa, chẳng khác gì như là một giấc ngủ (xem Mt 9:24), Người cần phải gọi họ dạy. Vì là một giấc ngủ, dù có ngủ say, ngủ mê ngủ mệt đến mấy, đến độ "xông mùi" đi nữa, như trường hợp của Lazarô trong bài Phúc Âm hôm nay, con người tội lỗi vẫn còn khả năng nghe được tiếng "Thiên Chúa là Thần Linh" (Jn 4:24): "Kẻ chết sẽ nghe thấy tiếng của Con Thiên Chúa và những ai nghe theo tiếng ấy sẽ được sống" (Jn 5:25). Mạc Khải "Thày là Sự Sống" theo ý nghĩa của Mùa Chay. Mùa Chay là Thời Đoạn Phụng Vụ hướng về và sửa soạn cho việc cử hành và cảm nghiệm Biến Cố Vượt Qua., một biến cố không phải Chúa Giêsu chỉ chịu khổ nạn và tử giá, mà còn sống lại hiển vinh nữa. Bởi thế mới gọi là Vượt Qua: "vượt qua sự chết mà vào sự sống" (Jn 5:24). Người đã ví cuộc Vượt Qua của Người chẳng khác gì như thân phận của một hạt lúa miến gieo xuống đất cần phải vượt qua mục nát mới có thể trổ sinh muôn vàn hoa trái (xem Jn 12:24). Phần Người, Người "đến để làm chứng cho chân lý" (Jn 18:37), ở chỗ "không làm theo ý mình mà là ý Đấng đã sai" (Jn 6:38), tới độ "Người đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá" (Phil 2:8). Chính vì thế, "Thiên Chúa đã tôn vinh Người" (Phil 2:9; xem Jn 17:1,5), ở chỗ, đã chứng thực Người là "Con yêu dấu" (Mt 3:17, 17:5), là Đấng Thiên Sai của Ngài, bằng cách "Thiên Chúa đã làm cho Người từ trong kẻ chết sống lại" (Acts 10:40, 13:30). Cuộc Vượt Qua, bao gồm việc Chúa Giêsu "tự hiến" (Jn 17:19) để làm chứng Người được Thiên Chúa sai, và việc Thiên Chúa làm cho Người từ trong kẻ chết sống lại cũng để chứng thực Người quả là Đấng Thiên Sai của Ngài, cần phải thực hiện để làm gì, nếu không phải để cho chung con người (đặc biệt là dân Do Thái) và riêng thành phần chứng nhân tiên khởi "tin mà được sự sống đời đời" (Jn 3:16). Nếu "Tôi đến cho chiên được sự sống và được sự sống viên trọn" (Jn 10:10), bằng cách "hiến mạng sống mình vì chiên" (Jn 10:11), thì Cuộc Vượt Qua của Chúa Kitô chính là để ban sự sống trường sinh một cách phổ quát cho chung loài người, và một cách bí tích cũng như thần bí cho riêng những ai tin vào Người vậy. Như thế, việc Chúa Giêsu làm cho Lazarô cải tử hoàn sinh vào thời điểm gần đến ngày giờ Vượt Qua của Người chính là dạo khúc của Thực Tại Mạc Khải "Thày là sự sống lại và là sự sống" vậy. Tại sao Chúa Giêsu, trong trường hợp Người làm cho Lazarô hồi sinh bước ra khỏi mồ, không xưng mình "Ta là sự sống (trước) và là sự sống lại (sau)", mà lại xưng "Ta là sự sống lại (trước) và là sự sống (sau)"? Theo tôi, Chúa Giêsu phải "là sự sống lại (trước)", bởi vì, Người sẽ sống lại từ trong kẻ chết, một sự sống lại về phần xác được Người tỏ cho thấy trước nơi việc Người làm cho Lazarô bạn thân của Người sống lại về phần xác. Và Chúa Giêsu phải "là sự sống (sau)", bởi vì, nhờ việc Người sống lại về phần xác của Người như thế, Người mới làm cho nhiều Người tin vào Người, nghĩa là làm cho họ được sự sống đời đời, như qua việc Người đã làm cho Lazarô sống lại về phần xác, nên, theo Phúc Âm hôm nay cho biết, Người đã thực sự làm cho nhiều người Do thái có mặt bấy giờ được sự sống. Ở chỗ, nếu "sự sống đời đời là nhận biết..." (Jn 17:3), thì "nhiều người Do Thái đến thăm Maria và thấy những gì Chúa Giêsu làm thì tin vào Người" (Jn 11:45) không phải là họ được "sự sống đời đời" hay sao? Đến đây chúng ta cũng hiểu được lý do tại sao trong Bữa Tiệc Ly Chúa Giêsu tự xưng "Thày là đường, là sự thật và là sự sống" (Jn 14:6). Bởi vì, theo tôi, Chúa Giêsu "là đường" qua những gì Người nói và làm nơi nhân tính của một Con Người trong suốt cuộc đời trần thế của Người, nhất là trong thời gian xuất thân loan báo và thiết lập Nước Trời; Chúa Giêsu "là sự thật" nơi chính chứng từ Người thực hiện, nhất là nơi Cuộc Khổ Nạn và Tử Giá của Người, để chứng thực Người quả là Đấng Thiên Sai; Chúa Giêsu "là sự sống" nơi quyền linh trọn vẹn (xem Mt 28:18) Người tỏ ra qua cuộc Phục Sinh của Người trong tư thế là Con Thiên Chúa, Đấng thông ban Thánh Linh cho thành phần chứng nhân tiên khởi là các vị tông đồ (xem Jn 20:22). Thật ra, mỗi một việc Chúa Giêsu làm đều là Mạc Khải cho thấy Người "là đường, là sự thật và là sự sống". Chẳng hạn trong Mầu Nhiệm Giáng Sinh, Chúa Giêsu "là đường" nơi chính việc "Lời đã hóa thành nhục thể và ở giữa chúng ta, chúng ta đã được thấy vinh hiển của Người" (Jn 1:14), "là sự thật" ở chỗ "ánh sáng thật đã đến trong thế gian chiếu soi cho tất cả mọi người" (Jn 1:9), và "là sự sống" ở chỗ "ai chấp nhận Người thì Người ban cho họ quyền làm con Thiên Chúa" (Jn 1:12). Hay trong việc Người ở lại trong đền thờ năm 12 tuổi, Chúa Giêsu "là đường" ở chỗ "ông bà tìm tôi làm chi?", "là sự thật" ở chỗ "ông bà không biết Tôi phải ở trong nhà của Cha Tôi hay sao?", và "là sự sống" ở chỗ "Người theo các vị về Nazarét và tuân phục các vị. Còn mẹ Người thì ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng" (Lk 2:49-51). Vấn đề thực hành sống đạo: Hy sinh, khổ chế, bỏ mình trong Mùa Chay chỉ có ý nghĩa khi chúng phát xuất từ đức tin chân thực, và chỉ có giá trị khi chúng trổ sinh hoa trái sự sống yêu thương trọn lành. Bởi vì "đức tin thể hiện nơi đức ái" (Gal 5:6). Mà đức tin là gì, nếu không phải, theo tu đức, là việc linh hồn đáp ứng tác động thần linh, là việc linh hồn tỏ ra nhận biết Thiên Chúa, là cảm nghiệm thần linh của linh hồn. Một cảm nghiệm thần linh càng chân thực càng phản ảnh thần linh, càng trở thành chứng từ thần linh sống động, càng có tác dụng thần linh mãnh liệt, càng thu hút tâm linh của con người muốn tìm kiếm chân lý và càng làm cho thế gian nhận biết để được sự sống đời đời (xem 1Jn 1:3). 61. Suy nghĩ về câu chuyện kẻ chết sống lại--Phạm Yên ThịnhCâu chuyện Chúa Giêsu cho ông Lazaro sống lại được đề cập trong ngày hôm nay là một đề tài thú vị, nhưng nghe qua thật là nghịch lý với những gì chúng ta thấy trong cuộc sống hằng ngày. Quả thật Đức Giêsu đã chữa lành, đã làm cho ông Lazarô chết trong mồ 4 ngày sống lại. Đoạn Tin mừng này có thể nói là để lại cho chúng ta nhiều cảm giác phác tạp khác nhau, phải chăng đó cũng là cảm giác của Mátta khi Chúa Giêsu đề cập đến sự sống lại của Lazarô em của chị. Chúng ta hãy cũng xem đoạn Tin mừng hội thoại này giữa Chúa Giêsu và chị Mátta. Trước tiên Chúa Giêsu đến với chị em nhà Mátta, thì chị ra đón Người. Chúa Giêsu không nói một lời nào để chia buồn hay an ủi chị về cái chết của một người em thương yêu. Chứng tỏ Chúa Giêsu biết rõ việc Ngài sắp làm còn quan trọng hơn, có nghĩa là hơn về cái chết, hay nỗi buồn của họ. Mátta: "Thưa thầy, nếu thầy ở đây thì em con đã không chết". Qua câu nói này chúng ta thấy rằng Mátta biết rõ Chúa Giêsu rất có khả năng chữa lành tật nguyền cho người ta. Nhưng sự thật em chị đã chết rồi, khiến chị rất đau buồn và tiếc nuối (khi em chị bệnh nặng chị đã sai người đi báo cho Chúa Giêsu nhưng Chúa đã lưu lại chỗ ở 2 ngày, để cho anh Lazarô phải chết). Tuy nhiên, sau đó chị Mátta đã thêm vào: "Nhưng bây giờ con biết, nếu thầy xin gì cùng Thiên Chúa thì Ngài đều ban cho". Một câu nói như hẻ mở một niềm hy vọng, hình như chị dám muốn thầy mình làm một điều gì cao cả hơn bình thường là chữa bệnh. Bởi thế Chúa Giêsu đã trả lời chị: "Em của chị sẽ sống lại". Tưởng chừng như Mátta hiểu được điều Chúa Giêsu nói, tưởng chừng như chị có đủ niềm tin để xin Chúa cho em chị sống lại, tưởng chừng như chị sẽ reo lên vì vui mừng. Nhưng sự thật không phải thế, chị lại chẳng dám tin, chị lại hiểu như những gì chị đã nghe thầy mình giảng dạy, nên thưa: " Con biết em con sẽ sống lại ngày sau hết, khi kẻ chết sống lại trong ngày sau hết." Một lời tuyên xưng rất căn bản và rất quan trọng, sau này Giáo hội cũng giác định trong Kinh Tin Kính, nhưng trong trường hợp này lại có tác động ngược lại. Và bởi thế Chúa Giêsu mới lý giải cho chị về chính Ngài (đã đề cập ở Gioan chương 4): "Chính Thầy là sự sống lại và lạ sự sống; Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy sẽ không phải chết. Chị có tin không?" Sự sống và cái chết mà của Chúa Giêsu đề ở đây là sự sống mai hậu, sự sống mà khi đến ngày tận thế, khi mọi thứ bị hủy giệt thì Thiên Chúa sẽ cho những ai tin vào Người sẽ được cứu rỗi. Kẻ tin và người không tin sẽ có hậu quả như ngày phán xét chung bị phân chia ra hai bên như chiên và dê. Có thể chị Mátta chỉ có hiểu được như thế nên mới đáp lại: "Thưa Thầy, có. Con vẫn tin Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian." (câu 27) Lại một lời xác nhận hay một lời tuyên xưng hết sức quan trọng nữa được phát ra từ miệng cô Mátta, nhưng về vấn đề Đức Kitô sẽ cho em cô sống lại ngay lúc đó thì quả là một điều mờ mịt đối với cô. Một thông điệp mà Đức Kitô bày tỏ trong câu 25 và 26 là Người sẽ cứu mọi người khỏi sự chết do tội Adam đã gây ra chỉ cần tin vào Người, mà điều này vẫn còn tiềm ẩn đối với Mátta. Bởi thế nói xong lời trên cô "lặn " đi về nhà, "nhường" chỗ cho em gái mình ra tiếp chuyện Thầy Giêsu. Có lẽ Mátta không nghĩ rằng Thầy Giêsu sẽ cho em mình sống lại và chính mắt cô sẽ được trông thấy, thể hiện ở câu 39, khi Chúa Giêsu bảo người ta mở ngôi mộ ra thì cô đã can ngăn: "Nặng mùi rồi, vì đã được bốn ngày". Bởi thế Đức Giêu mới nhắc lại cho cô, đây như là lời tái mặc khải nhưng hình như có chút trách móc: "Nào Thầy đã chẳng nói với chị rằng nếu chị tin, chị sẽ được thấy vinh quan của Thiên Chúa sao?"(câu 40) Rồi một phép lạ đã xẩy ra, Đức Giêsu cầu nguyện cùng Thiên Chúa và sau đó kêu lớn tiếng: "Anh Lazarô, hãy ra khỏi mồ!" Kẻ chết liền đi ra khỏi mồ, ai nấy đều ngạc nhiên và biết bao nhiêu kẻ tin vào Người. Mátta, Maria vui sướng dường bao khi đứa em của họ đã chết bốn ngày nay đã sống lại. Ôi, ai dám tin rằng đây là sự thật. Có thể hai cô Mátta và Maria hay cả những người xung quanh đã nghĩ rằng mình đang trong cơn mơ. Vâng, một sự lạ, một dấu chỉ Đức Kitô đã làm để vinh danh Thiên Chúa, một sự lạ Chúa Giêsu đã thực hiện để thiên hạ thấy được thân phận và trách vụ của Đức Kitô. Một sự lạ mà Chúa Giêsu muốn mọi người biết trước về tương lai của Ngài, về cái chết mà Ngài sẽ đi qua, về sự phục sinh mà Thiên Chúa sẽ ban tặng cho Ngài. Một dấu lạ mà đồng thời Chúa muốn cho ta thấy, ai tin vào Ngài thì ngày sau hết cũng sẽ được sống lại như vậy: "Ai tin vào Ta, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống." (câu 25) Nhưng đối với chúng ta, đối với nhiều người Kitô hữu có lúc đây là một điều thần kỳ, nhiều lúc chẳng dám tin và hơn thế nữa còn nhiều câu hỏi chất vần làm sao điều đó có thể xảy ra. Vì Tín Điều Kẻ Chết Sống Lại, trong đó có chúng ta làm sao để hiểu được, đôi khi chúng ta còn cầu xin Chúa cho mình một dấu chỉ hay một cảm nghiệm để cho niềm tin của chúng ta được rõ ràng hơn, được một cái gì đó gọi là "có thể nắm được", lòng trí của chúng ta có thể lý giải được, diễn tả được. Đây là vấn đề thách đố cho không ít người, khi thuyết sống lại của Chúa Giêsu nghịch với khoa học. Nhưng ngược lại, cũng chúng ta nhiều lúc cũng cầu xin Chúa ban thêm đức tin để chúng ta cũng được sống lại mai sau. Chẳng có gì xấu hay nguy cơ gì khi chúng ta dám cầu xin Chúa điều đó, dấu lạ đó. Nhưng nên nhớ rằng trước khi làm phép lạ cho anh Lazarô sống lại thì Chúa hỏi cô Mátta là: "Con có TIN không?" (câu 26), chứ Ngài không hỏi là con có HIỂU không? Đức tin nếu muốn dùng ngôn từ để lý giải cho minh bạch thì chắc là chẳng được gọi là tin nữa. Dĩ nhiên để hiểu được điều chúng ta tin thì nhìn vào cuộc sống của chúng ta xem Thiên Chúa đã làm gì cho chúng ta, xem Đức Kitô đã dạy gì cho chúng ta, và xem Thánh Thần đã dẫn dắt cuộc đời chúng ta thế nào, như thế có thể bảo đảm được phần nào. Đối với kẻ chết sống lại, Giáo hội cũng đã khẳng định như thế trong Kinh Tin Kính, an tâm mà tin tưởng, còn bao giờ chúng ta nắm bắt được thì chờ một ngày nào đó mà Thiên Chúa cho phép chúng ta, lúc đó mọi người sẽ vui mừng mà thốt lên: "Ôi! Tuyệt vời quá!" 62. Đức Giêsu là nguồn sống--Lm Augustine, SJ.Một lần kia đến thăm một trại nuôi dưỡng người già tàn tật và những người nghèo vô gia cư ở T. B, tôi có dịp hớt tóc cho một trại viên gần 40 tuổi. Khi biết tôi là sinh viên thường đi ngang qua khu vực gia đình anh hiện đang sống, anh liền kể cho tôi nghe về hoàn cảnh tuyệt vọng đáng thương của anh. Lạy Chúa, tâm hồn này bị nhận xuống bùn đen, theo Lời Ngài, xin cho con được sống (Tv 118,25) Được sinh ra trong một gia đình gia giáo theo đạo Thiên Chúa, anh là con đầu lòng nên từ nhỏ đã được bố rất nghiêm khắc nhưng hết mực yêu thương cho đi học ở chủng viện. Ông hy vọng ngày nào đó, anh sẽ là niềm vinh dự cho gia đình. Nhưng trong lần về nhà nhân kỳ nghỉ hè lớp 10, anh đã theo bạn bè cùng xóm quậy phá. Việc ấy gây tai tiếng đến nỗi bố anh vì thất vọng và vì danh dự đối với bà con lối xóm, nên đã chửi mắng, đánh đập rồi đuổi anh đi. Thế là vì tự ái và thiếu suy nghĩ nên T. đã bỏ nhà ra đi, bất kể tới hậu quả ra sao. Từ đó đến nay đã hơn 20 năm, T. đã trải qua biết bao thăng trầm. Anh tự mưu sinh với đủ thứ việc, như bốc vác, phụ hồ, làm rẫy, làm ruộng... T. cũng làm quen với nhiều thói xấu trên đời mà một thanh niên không gia đình dễ dàng buông thả. Hơn 20 năm bỏ nhà ra đi, cũng có những giây phút T. cảm thấy lòng anh trống vắng hướng về mái ấm gia đình và nhớ người bố ngày một già yếu. Đã có những lần anh quyết tâm dẹp bỏ tự ái để trở về, nhưng lần nào cũng gặp thất bại vì anh không được bố chấp nhận. Cụ thể lần chót cách đây chừng 6 năm, anh đã xin bố tha thứ và cho phép ở lại gia đình nhưng anh hoàn toàn tuyệt vọng vì ao ước của anh không được đáp ứng, cho nên anh đã thở dài và nói: "Bây giờ chỉ biết chôn cuộc đời trong cái trại phức tạp này!" Được gợi nhớ về dụ ngôn "Người cha nhân hậu", anh T. đã phản ứng: "Ước gì bố mình cũng được như người cha đó! Nhưng bây giờ thì hết còn hy vọng nữa!". Tôi lại mò mẫm nói với T. về chữ "Hiếu": Cho dầu bố anh là người thế nào đi nữa thì cũng là người đã sinh thành và dưỡng nuôi anh để anh có ngày nay. Cho nên anh phải kiên trì nhắm tới việc hòa giải với bố và với gia đình thay vì thất vọng trong niềm oán trách gia đình. Xem ra T. được đánh động, cố nén cảm xúc. Với đôi mắt đỏ hoe, anh nói: "Mình nghĩ mình là con trai lớn, mấy đứa em lập gia đình hết rồi, để ông già lớn tuổi mà không ai chăm sóc, mình áy náy lắm chứ. Nhưng ông khó lắm, người Bắc mà!" Rõ ràng tình cảm T. dành cho gia đình còn đó, không phải không có sức mạnh. Tôi liền đoan chắc với T.: "Cũng như anh, bố anh không thể nào quên anh được vì anh đã từng là người con được ông yêu thương và kỳ vọng. Rồi sẽ có lúc chính ông sẽ hối hận và cần sự có mặt của anh, đó là lúc ông sẽ tha thứ cho anh. T. liền nói: "Mình không cần bố cho phép ở lại nhà, mà chỉ cần ông tha thứ và cho phép đôi ba tháng về thăm ông một lần là mãn nguyện rồi." Sau vài giây trầm tư, đột nhiên T. ngước nhìn tôi, khiến tôi phải dừng tay kéo. Trong mắt anh, tôi thấy anh đang hy vọng. Và quả thật, anh nói cho tôi nghe về điều đó khi nhờ tôi làm người trung gian, thỉnh thoảng ghé nhà nói chuyện với bố anh, để ông tin rằng hiện nay anh thật sự hối hận về lầm lỗi trước kia, cũng như thực sự anh thương nhớ ông và muốn được thăm nom mà không cần phải ở lại gia đình. Anh còn nói: "Bây giờ không có gì gởi cho ông hết, nhưng bắt đầu từ hôm nay, mình sẽ gom góp quà do các phái đoàn đến viếng thăm trại cho, để làm quà thăm nhờ anh chuyển giùm." Con kể lể đường đời, Chúa đáp lại (Tv 118,26) Tôi nhận ra sự sống mới nơi T. Lòng anh tràn đầy hy vọng thay vì thất vọng. Không chỉ một mình anh, cả gia đình đều nghiệm thấy một biến chuyển giây chuyền. Trước tiên là ba đứa em trai và ba em dâu tới thăm T. ở trại. Anh khoe với tôi: "Mình chỉ biết là rất hạnh phúc vì có lại được tình cảm của gia đình." Sau đó vài tuần, cũng dịp tới thăm trại, tôi được anh khoe rằng bố anh đã tới thăm anh. Ông cụ khóc quá sức. Cả hai bố con cùng an ủi nhau trong nước mắt, đó là lúc anh nghiệm thấy tình cha con nồng nàn mãnh liệt từng bị tắc nghẽn suốt 20 năm qua. Nhưng tình cảm mà T. cảm thấy mãnh liệt hơn cả là khi người em trai lên chở anh về thăm gia đình. Cả nhà làm một bữa tiệc nhỏ quây quần bên nhau. Bố và các em đều an ủi và khuyến khích anh cố giắng ở lại trong trại một thời gian. Gia đình sẽ thu xếp, kiếm được việc làm, sẽ đón anh về nhà luôn. Vì dù sao, anh cũng vẫn là con, là người anh cùng chung máu mủ, thì làm sao bỏ nhau được! Đường chân lý, này con đã chọn (Tv 118,30) Điều lạ lùng là hôm đó, trước khi từ giã gia đình để trở về trại, chính anh T. đứng ra khuyên bố cùng mẹ kế của anh hiện đang sống ly thân trong cùng một căn nhà mà ngăn đôi, chỉ vì xích mích giữa con chung, con riêng, nên anh xin các ngài nên bỏ qua tất cả để làm hoà, vì tuổi đã già, nên lo phần tinh thần là hơn cả. Anh cho rằng xích mích xảy ra chỉ vì mấy đứa em còn nhỏ, chưa suy nghĩ chín chắn, khiến có lời ra tiếng vào làm mất lòng. Phần anh vẫn coi mẹ kế như mẹ ruột của mình. Anh xin mẹ tha thứ cho anh và cho những đứa em đã gân nên bất hoà trong gia đình nay cần được hàn gắn, đó là ước mong của anh trước khi ra đi. Bố và các em dặn anh: "Cần điều gì cứ nhắn về nhà!" Còn mẹ kế đã cho anh 50,000đ, một chai dầu xanh, và vừa khóc vừa khuyên anh tu tỉnh "nhất là nhớ đọc kinh cầu nguyện mỗi ngày!" Câu chuyện vừa kể liên quan tới phép lạ Đức Giêsu cho ông Ladarô sống lại như thế nào? Ladarô là em của hai chị em Mácta và Maria. Cả ba được Đức Giêsu thương mến. Gia đình họ ở làng Bêtania, cách Giêrusalem chừng 2 dặm. Khi Ladarô đau nặng, hai chị em nhắn tin cho Đức Giêsu hay, nhưng Đức Giêsu đã không vội vàng lên đường. Khi tới Bêtania, Đức Giêsu được đặt trước cảnh than khóc của hai chị em và những người thân, vì Ladarô đã chết và đã được chôn trong mộ bốn ngày rồi. Đó là lúc Đức Giêsu tuyên bố bản thân Người chính là sự sống lại và là sự sống (c.25). Rồi Đức Giêsu đi đến mộ và gọi Ladarô bước ra khỏi đó, với các băng vải còn cuốn đầy mình. Câu chuyện được kể cũng nói tới một chàng thanh niên được Đức Giêsu thương mến nhờ chàng sinh viên tới hớt tóc cho anh. Sinh viên này đã vận dụng lời Chúa Giêsu trong dụ ngôn Người cha nhân hậu (Lc 15,11-32) và chữ hiếu (giới răn thứ tư) để thức tỉnh lương tâm của trại viên T. Lạ lùng thay, trại viên T. nhờ đó được hoà giải với bố và gia đình anh. Cách nào đó, anh như Ladarô đã chết được Chúa cho sống lại. 63. Sự sống lại--Lm Phêrô Phạm Ngọc LêPhụng vụ hôm nay đều nói về sự sống và sự sống lại, nhờ đức tin và nhờ Chúa Thánh Thần, như một chuẩn bị cho mầu nhiệm phục sinh. Trong thị kiến đầy ấn tượng của ngôn sứ Êdêkien, ông đã nghe tiếng phán với ông: "Ta sẽ đặt Thần Khí ta vào trong các ngươi, và các ngươi sẽ được hồi sinh." "Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới", Thánh Phaolô đã nói như thế trong thư gởi tín hữu Rôma. Và trong bài tin mừng theo thánh Gioan, Đức Giêsu nói với Matta: "Chính Thầy là sự sống lại," để bảo đảm với bà rằng Lagiarô, em bà, sẽ được cho sống lại. Sứ Điệp Niềm Tin Thiên Chúa của do Thái giáo và của Kitô giáo là Thiên Chúa của sự sống. Ngài là Chúa của sự sống. Ngài là Chúa của kẻ sống và kẻ chết. Như lời thánh Irênê nói, vinh quang của Thiên Chúa chính là con người sống trong sự viên mãn. Để thực hiện việc này, Chúa dùng mọi phương cách cùng với lòng nhẫn nại và trung tín, như được phản ánh trong suốt dòng lịch sử của mối tương quan giữa Thiên Chúa và dân Ítraen. Một giai đoạn tương ứng với cuộc lưu đày Babylon, giữa cuộc tàn phá Đền Thờ và Thành Giêrusalem. Bị lưu đày ở Babylon, cùng với dân chúng, niềm hy vọng vào tương lai đi dần đến chỗ héo tàn. Tình trạng đó được biểu tượng bằng hình ảnh những bộ xương khô đét. Qua ngôn sứ Êdêkien, Thiên Chúa mạc khải cho dân biết rằng Ngài sẽ vực họ dậy tự vực thẳm, sẽ ban cho họ sự sống mới và mang họ về miền đất sự sống, Đất Hứa. Biểu tượng trong thị kiến của Êdêkien trở thành sự thật nơi trường hợp của Lagiarô. Ông là một người bằng xương bằng thịt, là em của Matta và Maria quê làng Bêtania. Ông đã ngã bệnh và chết. Khi Đức Giêsu đến Bêtania, ông đã được chôn trong mồ bốn ngày rồi, một khoảng thời gian đủ theo não trạng người do thái, để chứng tỏ rằng ông đã chết thật. Nhưng Đức Giêsu là sự sống, và đồng thời Ngài thương Lagiarô như bạn thân. Đức Giêsu làm được gì bây giờ? Ngài ra mồ và kêu lớn: "Anh Lagiarô! Hãy ra khỏi mồ!" Và Lagiarô đã sống trở lại. Dĩ nhiên, về phần Lagiarô, ông đã phải nhờ đến một thựctại siêu việt: cái chết và sự phục sinh của Đức Giêsu Kitô, sẽ được cử hành trong hai tuần nữa, và sự sống mới mà Đức Kitô mang lại cho con người một cách viên mãn, cả về mặt thể lý và tâm linh nhờ tác động của Thánh Thần. Ý niệm về sự sống lại và sự sống cũng đi theo một tiến trình như trên: trước tiên có biểu tượng của sự giải thoát và sự thông hiệp vào cuộc sống hạnh phúc vui sướng trên trần đời do Chúa ban cho "các tổ phụ". Kế đến là giai đoạn lịch sử đi từ sự chết đến sự sống, nhưng là một cuộc sống có kết thúc bằng nấm mồ. Giai đoạn này mặc lấy một hình thái thực sự viên mãn và mới mẽ nơi Đức Kitô, Đấng đã chết, vượt qua cái chết để sống mãi mãi. Sau cùng, nơi trần đời này, người kitô hữu thông phần vào sự sống của Đức Kitô phục sinh, nhờ ân sủng trong Chúa Thánh Thần, và cũng sẽ chia sẻ sự vĩnh cữu với Chúa. Đó là lý do tại sao cái chết của người kitô hữu là cuộc biến đổi cách sống, gây ấn tượng cho ta vì ta chưa biết rõ, tuy nhiên ta biết chắc rằng đó là cuộc "sống cho Chúa". Gợi Ý Mục Vụ Trong Mùa Chay, những chủ đề chính của phụng vụ thường là sám hối, cầu nguyện, tỉnh thức, ăn chay... Phụng vụ hôm nay có sự thay đổi, để giúp ta suy nghĩ trước về mầu nhiệm Đức Kitô sống lại và được tràn niềm vui. Đây là niềm vui của người biết cởi bỏ con người cũ của mình và mặc lấy con người mới, trong bầu khí yêu thương và sự thật, biết trao ban cho các anh chị em mình. Chúa Nhật hôm nay như là một cao điểm trong cuộc hành trình, Đức Giêsu dạy ta: Thiên Chúa là sự sống. Thực tại quan trọng nhất của kitô giáo chính là sự sống mà Thiên Chúa thông ban cho ta như Ngài đã ban cho dân Ítraen và cho Lagiarô xưa. Cùng với sự sống ta tràn đầy niềm vui vì có sự sống của Chúa trong ta, tình thương và lòng thương xót của Ngài dành cho ta. Nhờ Thánh Thần ở trong ta mà ta được như thế; là kitô hữu, ta cần ý thức rằng chính Thánh Thần ban sự sống, ngày qua ngày phù trợ và nâng đỡ ta. Giáo dân trong giáo xứ bạn ý thức ra sao về sự hiện diện hữu hiệu của Thánh Thần trong đời sống của mỗi tín hữu và trong lòng Hội thánh? Có lẽ nơi vài cộng đoàn người ta tìm thấy một đời sống kitô buồn chán và ảo tưởng như trong xứ đạo, trong giáo phận, giữa các bạn trẻ, trong các đoàn thể giáo xứ, hoặc trong các phong trào của giáo hội. Có lúc chỉ thấy những vấn nạn, những căng thẳng, lỗi lầm, những yếu kém con người, những giới hạn, những thiếu sót về mặt đạo lý cũng như luân lý...trong những sinh hoạt xứ đạo. Hôm nay Đức Kitô nói với tất cả chúng ta: "Thầy là sự sống lại." Hãy lưu tâm đến sự sống, đến tất cả những gì tốt đẹp, đến những hoa trái mà niềm tin kitô giáo mang lại cho nhiều người. Hãy lưu tâm đến sự "sống lại", đến sự biến đổi mà Đức Kitô thực hiện nơi một số người bạn quen biết. Hãy lưu tâm đến tất cả những ai cầu nguyện, những người sống đạo lý kitô một cách lạc quan, những kẻ đang sống với bộ mặt của những người được trở lại cuộc sống, dù còn giữa muôn vàn đau khổ. Cùng hoạt động và chiến đấu chung với các anh chị em khác trong niềm tin, để sự sống kitô triển nở nơi giáo xứ của bạn và những vùng xung quanh. Biết bao điều thiện hảo có thể được thực hiện, khi ta có cái nhìn trong sáng và dễ mến, một lời khuyến khích, khi ta sống mẫu gương cầu nguyện, lạc quan, và tình yêu đối với Chúa cũng như đối với người thân cận! 64. Một niềm tinSống ở trần gian, con người vẫn cứ mơ tưởng tới một thần dược, một loại thuốc thần thiêng nào đó có thể kéo dài cuộc sống hay đúng hơn giúp con người trường sinh bất tử. Thực ra, ở đời chẳng có loại thuốc nào là thuốc bất tử cả.Chỉ có những con người ham sống sợ chết mới đi tìm loại thuốc bất tử mà thôi. Quả thực, nếu có loại thần dược đem lại sự sống vĩnh cửu thì những người giầu có lắm tiền sẽ có cơ hội sống lâu, sống thọ, nhưng đó chỉ là ước mơ, mơ ước trong huyền thoại, trong những chuyện giả tưởng hoang đường. Tuy nhiên, với đức tin Kitô giáo, chúng ta vẫn tin chắc có một loại thuốc bất tử, nhưng nó thuộc ở đời sau mà con người ngay còn ở trong thế giới này phải hết sức tìm cho bằng được... Tôi vẫn còn nhớ khi còn là sinh viên triết học, tôi đã có nhiều dịp đi thăm trường mù, trường câm điếc. Tôi vẫn có cảm giác thật xót thương những con người xấu số: không nhìn thấy, không nghe được. Có những lần tới với những anh chị em mù, câm điếc, tôi buồn và xót xa vô hạn, nhưng đó chỉ là cảm giác mau qua của những con người được hạnh phúc thấy, nghe và nói được. Điều đọng lại ở nơi tôi sau nhiều lần thăm viếng, làm việc bác ái và cho đến bây giờ, đó là tâm tình ngưỡng mộ và lòng cảm phục những con người mà tôi cho là xấu đó. Ngưỡng mộ và cảm phục lòng tin của họ đặt nơi Chúa, Người mà họ đã đi theo khi họ được lãnh nhận Bí tích rửa tội.Nhiều lần đi thăm họ và đêm về nằm suy nghĩ, tôi nghiệm ra rằng những con người này có một niềm tin thật đáng trân trọng, họ cam số phận và tin tưởng vào Chúa. Họ cho rằng đời này mau qua và họ sẽ được sáng mắt, được nghe và được nói khi họ trở về với Chúa qua cái chết...Đó là niềm tin kiên vững, một đức tin không ai có thể lay chuyển đúng như Lời của Chúa trong bài Tin Mừng hôm nay: " Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Thầy sẽ không bao giờ phải chết " (Ga 11, 25-26). Những anh chị em mù, câm và điếc, tôi đã gặp trong cuộc đời là bằng chứng diễn tả niềm tin Kitô giáo, niềm tin vào Đức Giêsu Kitô. Chính niềm tin này bảo đảm cho họ được sống đời đời. Cái loại thuốc trường sinh mà nghiều người vẫn mong ước đi tìm dù khó khăn biết mấy, dù đắt tiền đến đâu vẫn có người nong nả tìm kiếm để được sống thêm, sống dài, sống lâu ở thế giới này. Nhưng tất cả đều vô ích, y khoa kiếm được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện...Cả đời, thế hệ này qua thế khác vẫn chỉ là một cuộc tìm kiếm vô vọng...Lagiarô được Chúa Giêsu làm phép lạ cho hồi sinh dù anh ta chết, chôn đã bốn ngày trong mồ. Sở dĩ Chúa cho Lagiarô sống lại không phải vì Ngài thân thiết với Lagiarô và gia đình của anh ta, nhưng chính vì niềm tin của Maria và Mácta vào Chúa Giêsu là sự sống và sự sống lại (Ga 11, 25). Chúa Giêsu cho con người và cho mọi người hiểu rằng phép lạ cho Lagiarô sống lại chỉ là để chuẩn bị cho một phép lạ vô cùng lớn lao, vô cùng trọng đại: chính Ngài sẽ chết và sẽ sống lại khải hoàn vào sáng ngày thứ nhất trong tuần. Niềm tin cho chúng ta hay Chúa Giêsu chết để đưa chúng ta vào cõi sống và đưa chúng ta từ thế giới tạm bợ này tới quê hương vĩnh cửu trên trời. Niềm tin Kitô giáo làm nổi bật Bí tích rửa tội bởi vì có qua phép rửa, có Chúa Thánh Thần, chúng ta mới ra khỏi sự tối tăm của tội lỗi. Thánh Phaolô viết cho tín hữu Roma: " Nếu Đức Kitô ở trong anh em thì tuy thân xác vẫn là đồ hay chết vì tội, nhưng Thần Khí là sự sống vì đức công chính. Nếu Thần Khí của Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cư ngự trong anh em, thì Đấng đã cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ tác sinh thân xác chết dở của anh em, nhờ bởi Thần Khí của Người cư ngụ trong anh em". Mùa Chay đã giới thiệu cho chúng ta về Nước Trường Sinh, Lời mạc khải, Lời Hằng Sống: "Nước Chúa Giêsu ban sẽ trở thành mạch suối... vọt lên cho tới sự sống đời đời". Nước ấy chữa lành người mù từ thuở mới sinh. Nước ấy sẽ rửa mọi người muốn trở thành con cái Chúa... Chúa Nhật V Mùa Chay, năm A, hôm nay nói lên phép lạ lạ lùng Chúa làm cho Lagiarô sống lại, và đó cũng là lời tiên báo, nhờ phép rửa tội, chúng ta cũng sẽ được phục sinh từ cõi chết tới cõi sống đời đời. Đó là đức tin của người Kitô hữu và là đức tin của Hội Thánh Công Giáo. Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con càng ngày càng yêu mến và hiểu sâu xa hơn về Bí tích rửa tội chúng con đã lãnh nhận. Amen. 65. Niềm tin vào sự sống đời đờiMột trong những bản năng mà Thiên Chúa đã ban cho các sinh vật trên trái đất này là bản năng sinh tồn. Con người cũng là sinh vật nên ai cũng muốn sống và sợ chết. Cho dù sự sống có như ngàn cân treo sợi tóc thì người ta cũng quyết bảo vệ cho đến cùng. Người ta sẵn sàng bán vườn đất hay làm tất cả những gì có thể để bảo vệ sự sống của mình hay của người thân. Dầu vậy, đến một lúc nào đó người ta cũng đành bó tay trước thần chết. Như thế, phải chăng cái chết là ngõ cụt của đời một con người sao? Hôm nay, Chúa Giêsu mạc khải cho biết chúng ta sẽ được sống đời đời nếu như chúng ta thật sự tin vào Người. Khi hay tin Lazarô người thân thuộc với mình đã chết 4 ngày, Chúa Giêsu đã trở lại Giuđêa và ghé gia đình của anh. Sau vài lời trao đổi với Matta, Chúa Giêsu đã mạc khải: "Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết" (Ga 11, 25 - 26). Ở đây, Chúa Giêsu muốn nói đến cái chết của sự sống tạm bợ và sự sống đời đời. Cái chết hiện tại của Lazarô chỉ là cái chết của sự sống tạm bợ. Còn ai thật sự tin vào Người thì dù có chết về sự sống tạm bợ thì cũng sẽ được sống đời đời. Do hậu quả của tội nguyên tổ nên mọi người chúng ta đều phải chết. Tuy nhiên, cái chết này chỉ là sự biến đổi từ sự sống tạm bợ sang sự sống đời đời. Hơn nữa, là người Công giáo chúng ta tin xác loài người phải chết này sẽ sống lại vào ngày tận thế. Đến lúc đó chúng ta sẽ biết ai sẽ được sự sống đời đời hay phải chết đời đời. Những ai khi còn sống ở đời này biết thật sự tin vào Chúa Giêsu thì chắc chắn đến lúc ấy sẽ không còn phải sợ gì nữa. Tuần trước, chúng ta đã cùng suy niệm Chúa Giêsu đem đến cho chúng ta ánh sáng đức tin. Để rồi qua ánh sáng đức tin ấy, chúng ta có được cái nhìn đức tin. Từ cái nhìn đức tin chúng ta sẽ đi đến những hành động theo đức tin. Quả vậy, Thánh Giacôbê đã nói: "Đức tin không hành động là đức tin chết" (Gc 2, 17) Tin vào Chúa Giêsu là mỗi ngày chúng ta từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo Người (Mt 16, 24) Tin vào Chúa Giêsu là mỗi ngày chúng ta thi hành thánh ý Chúa Cha để trở nên thân nhân của Người. (Mt 12, 50) Tin vào Chúa Giêsu là chúng ta yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực và yêu anh chị em như chính mình (Mc 12, 33) Như vậy, tin vào Chúa Giêsu là chúng ta hãy sống như Người đã sống. Càng sống giống Chúa Giêsu bao nhiêu là chúng ta sẽ đáng được sự sống đời đời bấy nhiêu. 66. Sự sống vĩnh cữuCái chết là nỗi đau tột cùng của con người. Cái chết đưa con người xa rời với những gì trước đây mình gắn bó. Của cải, người thân, ước mơ, hy vọng tất cả đều qua đi trong nháy mắt. Những gì còn lại chỉ là nắm mộ sâu với những tiếc nuối của người thân. Đứng trước cái chết con người mới thấy rõ sự sống đáng quý là dường nào. Cuộc sống nơi trần gian có giới hạn, mang tính tạm thời nhưng ai ai cũng bám víu, cố giữ không muốn xa rời. Sự sống tạm thời thật quý, sự sống vĩnh cửu còn đáng quý hơn biết chừng nào. Chúa Giêsu đã tự nói về mình " Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống " (Ga11,25). Lời Chúa Giêsu mang đến niềm vui cho những ai đang đau buồn trước cái chết, đem đến niềm vọng cho những ai vừa thất vọng trước sự ra đi của một người. Sự chết là nỗi đau của con người. Con người ai cũng phải chết. Người lành cũng chết, người dữ cũng chết. Người tội lỗi cũng chết. Người thánh thiện đạo đức cũng không loại trừ. Người được Chúa Giêsu yêu như Lazaro cũng phải chết hay ngay chính bản thân Chúa Giêsu, Ngài phải đi qua cái chết mới đến vinh quang phục sinh. Cái chết cho ta hiểu rằng mọi vật đều hư vô. Cuộc sống đời này không là hạnh phúc vĩnh cửu. Mọi vật mọi loài đều hữu hạn trong thời gian và không gian. Chỉ nơi Thiên Chúa mới có sự sống thật, mới có hạnh phúc thật. Thiên Chúa là địa chỉ cần thiết mà con người cần phải tìm về. Bởi lẽ nơi Ngài sự chết sẽ không còn hiện diện. Nỗi khổ đau buồn sẽ được Ngài xoa dịu. Tất cả những tang thương sẽ được Thiên Chúa mặc cho những giá trị mang lại ơn cứu rỗi ngàn đời. a. Chết trong tinh thần. Cái chết tự nhiên khiến ai nấy cũng đau buồn. Nhưng cái chết tinh thần làm cho con người cần phải suy nghĩ nhiều hơn. Chết vì không được ai quan tâm. Có những người vẫn còn hiện diện trước mắt mọi người nhưng thật ra họ đã chết. Đó là những người sống mà không có tình thương, không có hy vọng, bị người đời bạc đãi phản bội. Có những người già phải sống cô đơn, sống nghèo khổ giữa những đứa con đầy đủ tiện nghi mà không quan tâm gì đến mình. Họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết. Có những người đang vật lộn với cơn bệnh tật, thế mà chẳng ai kình viếng, chẳng ai thăm nom, con cái cũng chẳng màn, thỉnh thoảng về thì cho ít tiền để cơm cháo. Quả thật, họ đang sống nhưng thật ra họ đã chết từ lâu rồi. Có những em nhỏ bụi đời lang thang ngoài phố chợ không biết đâu là nhà, không biết cha mẹ mình là ai, không được học hành, không một tương lai, không một hy vọng cho ngày mai. Những em đó đang sống nhưng thật ra đã chết rồi. b. Chết vì còn sống trong tội lỗi. Cái chết tinh thần không dừng lại ở sự lạnh lẽo, bội bạc của con người. Khi con người phạm tội chính là lúc họ đang ở trong sự chết, vì đã căt đứt mối dây hiệp thông sự sống với Thiên Chúa. Họ chết đuối không bởi do người khác nhấn chìm nhưng vì họ không có cố gắng vươn lên. Họ dường như buông xuôi, đành chấp nhận hiện trạng xấu xa của mình. Họ cho rằng tội lỗi là không thể nào diệt được và đức hạnh thì không bao giờ đạt tới được. Họ không cố đi lên nên đành phải thụt lùi. Sống trong tội khác nào sống mà như đã chết. Một thái độ khác không muốn sám hối ăn năn. Lần đầu phạm tội ta thấp lo sợ. Lần thứ hai vấp phạm cảm thấy lo lo. Lần thứ ba đã thấy ít lo sợ hơn trước. Và rồi nhiều lần sau kế lỗi phạm ta chẳng còn đắn đo suy nghĩ gì nữa. Dần dần sẽ hình thành nơi ta một sự chai lì trong tội. Ta chẳng cần để ý mình có phạm tội hay không, không còn chiến đấu nữa, phạm tội mà không muốn ăn năn nữa. Đó là ngày mà tâm hồn ta đã chết. Chúa Giêsu là sự sống lại Trong một thế giới mà sự chết luôn đe doạ thì vai trò sự sống Chúa Giêsu càng được tỏ hiện. Cô Matta thưa cùng Chúa Giêsu " Thưa Thầy nếu có thầy ở đây, em con đã không chết " (Ga11,21). Đây là một câu nói đầy nữ tính của Matta. Lời cô nửa trách móc vì không cầm lòng được trước cái chết của em, nửa tin tưởng vào Thiên Chúa. Cô như trách CG rằng: Lúc con báo tin sao Thầy không đến ngay, bây giờ mọi sự đã rồi, em con đã chết rồi thầy đến chi nữa! Nhưng khi thốt ra lời ấy, cô Matta nói tiếp những lời biểu lộ niềm tin vững mạnh. Cô nói bằng một hy vọng trong tuyệt vọng " Nhưng con biết bất cứ điều gì Thầy xin cùng Thiên Chúa, Người cũng sẽ ban cho Thầy " (Ga11,22). Chúa Giêsu không phụ lòng mong mỏi và niềm tin tưởng của Matta. Ngài đã cho Lazaro sống lại khi thân xác đã nặng mùi. Phép lạ của Ngài là lời minh chứng Ngài chính là sự sống thật. "Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù có chết cũng sẽ được sống ". Khi nói câu này chắc chắn Chúa không nghĩ về sự sống thể xác. Bởi vì một người tin Chúa không thể chết, điều này không đúng sự thật. Do đó, Chúa Giêsu ngầm nói đến sự chết do tội lỗi, do sự nhẫn tâm của con người gây ra. Cho dù người ta có thể trở thành vô tri vô giác như một kẻ đã chết trước sự đau khổ của người khác; Cho dù người ta có thể dấn thân vào việc làm bất lương chẳng còn biết vinh nhục là gì; Cho dù một người đã lâm vào tình trạng tuyệt vọng trong đời sống tâm linh; Chúa Giêsu vẫn có thể khiến những người ấy sống lại. 67. Chết để được sốngCái chết luôn là nỗi ám ảnh và nỗi sợ khủng khiếp nhất của nhân loại. Ai đã từng trải nghiệm khi chia ly vĩnh viễn với người thân mới biết được nỗi đau và sự mất mát mà cái chết mang đến. Tin Mừng hôm nay cho thấy cảnh đau thương, tang tóc do cái chết mang đến cho Lazarô và gia đình anh, cũng như nỗi đau thương ấy hiện rõ trên khuôn mặt Chúa Giêsu trước sự ra đi của người bạn thân yêu làng Bêthania. Nhưng rồi cũng trong sự đau thương tang tóc ấy loé lên niềm hy vọng xoa dịu cảnh sầu thương trước sự hiện diện của Chúa Giêsu. Thánh Gioan thật tinh tế khi lột tả sự đau thương của gia đình Bêthania qua những trang Tin Mừng sống động, cũng như cho thấy sự đối kháng với nỗi tang thương ấy là niềm hy vọng mãnh liệt, một niềm vui khôn tả khi tử thần không còn quyền thống trị trước sự có mặt của Con Thiên Chúa. Chuyện xảy ra tại thôn làng Bêthania, nơi Chúa Giêsu thường lui tới giảng dạy và nghỉ ngơi. Gia đình ấy có ba thành viên: Macta, Maria và Lazarô. Cuộc sống thường ngày cứ trôi qua êm đềm và hạnh phúc. Nhưng cái chết xuất hiện phá tan tất cả. Những dự tính, những hạnh phúc mong manh nhỏ bé ấy tưởng chừng như không ai có thể lấy được giờ đây bị tử thần cướp mất, cắt đứt và làm tiêu tan hết mọi hy vọng, mọi mơ ước tầm thường mà con người đã dày công vun đắp. Một bầu khí tang thương nặng trĩu đang bao trùm gia đình ba chị em Macta trước cái chết của Lazarô. Chính Chúa Giêsu cũng không cầm được nước mắt trước cảnh đau thương này. Tuy nhiên Ngài muốn cho thấy vẫn con một sức mạnh vượt xa nọc độc của thần chết. Sức mạnh ấy chính là Thiên Chúa. Nếu như thần chết làm tiêu tan mọi hy vọng, gieo nỗi tang thương trên khắp cả hoàn cầu bằng cái chết chia biệt người với người, với những mơ ước xây đắp nơi trần gian... thì Thiên Chúa dùng chính cái chết ấy để đưa con người vào cuộc sống vĩnh cửu. Những thứ mà tử thần gây ra cho nhân loại chỉ là sự mất mát tạm thời. Nhưng Thiên Chúa dùng cái mất mát tạm thời đó để ban cho nhân loại những điều bất diệt. Như vậy cái chết giờ đây không còn là thứ sợ hãi mà chính là mối lợi. Đây chính là sự khôn ngoan của Thiên Chúa: từ sự phản bội của con người trước tình yêu Thiên Chúa mà nhân loại phải chịu hậu quả nặng nề là cái chết, thì giờ đây cũng chính từ cái cái Thiên Chúa dẫn con người đến sự sống đời đời cách dồi dào hơn trước... Nhưng không phải cái chết nào cũng trở thành mối lợi để chúng ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Nếu chúng ta chết trong tội lỗi và trong những tham vọng tầm thường của mình thì cái chết ấy sẽ dẫn ta đến cái chết thứ hai là cái chết mãi mãi. Chỉ có những cái chết cho tội, chết cho những ham muốn thấp hèn của bản năng... trong niềm tin tưởng phó thác và hy vọng vào Thiên Chúa mới dẫn ta bước vào cuộc sống vĩnh cửu. Sống trong thời đại văn minh, nhưng con người vẫn còn bị bao phủ bởi sự tối tăm của thần chết. Ánh sáng của Chúa Kitô đã đến để xoá tan bóng đêm của sự chết. Nhưng nếu chúng ta vẫn còn sống theo bản năng, sống trong sự ích kỷ, muốn chiếm đoạt, muốn thống trị, không tiếp tay để đẩy lùi chiến tranh thù hận... thì chúng ta vẫn đang tiếp tay để cho thần chết thống lĩnh. Khi đó, chúng ta đang tự đóng khung mình không để ánh sáng sự sống của Chúa Kitô lan toả. Nếu chúng ta muốn chiến thắng tử thần, muốn cuộc sống này không con bị tử thần phá hoại, chúng ta phải biết tin tưởng vào Chúa Kitô và đặt mọi hy vọng vào Thiên Chúa như hai chị em Macta và Maria trong Tin Mừng hôm nay: "Nếu có Thầy ở đây em con sẽ không chết." Tin tưởng vào Chúa Kitô là tin rằng cái chết là một phần của sự sống. Chúng ta sinh ra là để chết và chết để được sống dồi dào. Chính nhờ cái chết mà chúng ta hiểu được giá trị của sự sống. Chúng ta phải chết cho tính ích kỷ, tự kiêu và chết cho tội... Mỗi lần chết như thế là mỗi lần chúng ta cùng nhau vượt qua sân khấu cuộc đời. Mỗi ngày có một cái gì chết đi thì cũng có một cái gì được sinh ra. Chúng ta chỉ chết trong phút chốc với những thất bại, với sự ngược đãi chống đối, với buồn đau, thất vọng và ngay cả cái chết của thân xác như Lazarô... vì nỗi đau mà những cái chết này mang lại trong giây lát rồi sẽ qua để hứa hẹn một tương lai tươi đẹp. Nhưng chúng ta sẽ chết mãi mãi khi tự cô lập, khi chua cay gắt gỏng với anh em, khi con tim ta trở nên chai đá không còn nhạy cảm trước nỗi đau của người khác... Chính Chúa Kitô cũng đã trải qua những cái chết này khi treo mình trên thánh giá. Vậy nếu chúng ta cùng chết với Đức Kitô như thế thì chắc chắn chúng ta cũng sẽ được cùng sống với Ngài. Lạy Chúa, nếu ngày mai con chết chắc chắn con sẽ vô cùng lúng túng vì cả đời con chưa làm được một điều gì cho Chúa cũng như cho anh em. Thế giới này còn bao khiếm khuyết dở dang, còn bao điều nằm ngoài vòng ta của Chúa. Xin cho chúng con mỗi ngày dám chết đi chính mình để biết cộng tác với Chúa để xây dựng một thế giới yêu thương, công bằng, vui tươi và hạnh phúc... Xin nuôi dưỡng nơi chúng con một niềm tin vững vàng và niềm hy vọng nồng cháy, để tất cả những gì chúng con làm đều nhằm chuẩn bị cho ngày Chúa đến. Amen. 68. Niềm tin sự sốngBiến cố sập nhịp cầu Cần Thơ 26.09.2007 là biến cố gây kinh hoàng và ám ảnh của các gia đình và người thân của gần 100 sinh mạng phải mất đi vĩnh viễn mà không một lời từ biệt. Những người thân chỉ còn biết kêu gào đau khổ trong tuyệt vọng. Lúc đó hình ảnh nhịp cầu với những thanh sắt to nằm tua tủa trong những khối bê tông nặng hàng ngàn kilôgram. Nó như một nấm mồ khổng lồ chôn tập thể những người thân mình mà không biết cầu cứu cùng ai. dẫu rằng trong cuộc sống ai cũng biết sinh - lão - bệnh - tử là điều không thể tránh khỏi nhưng khi mất người thân thì ai cũng phải đau buồn. Maria và những người Do Thái cũng đau buồn khóc lóc trước cái chết của Lazarô. Trước nỗi đau khổ đó, Đức Giêsu cũng có một thái độ đầy tình người: "các ngươi đặt ông ấy ở đâu?". Và Người bật khóc, do đo người Do Thái mới nói: "kia xem! Ông ta thương anh Lazarô biết mấy!". Nhiều lối giải thích cho rằng Đức Giêsu thương Lazarô nên đã khóc. Lối cắt nghĩa này không hoàn toàn sai. Nhưng có một điều hơi khúc mắc là tại sao Ngài biết chắc mình sắp cho Lazarô sống lại mà con khóc thương? Điều đó hơi có phần vô lý. Ngoài ra, Thánh sử còn diễn tả tâm tình Đức Giêsu qua việc "Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người ta luôn thắc mắc về ý nghĩa các tâm tình đó. Có kẻ xem đây là cơn giận của Chúa Giêsu đối với cái chết mà tác giả của nó là Satan. Số khác lại coi đây là cơn giận của Ngài vì sự cứng lòng tin của những người Do Thái. Điều đó có thể hợp lý hơn, vì cái chết và cứng lòng tin đều quy về Satan như nguyên nhân tác thành. Quả thật, Đức Giêsu không phải cho thân xác Lazarô sống lại để kéo dài thêm tuổi thọ ở trần gian. Nhưng muốn cho con người thấy được Thiên Chúa sẽ ban cho những người tin vào Người sự sống ở trần gian. Như trong bài Tin Mừng Đức Giêsu đã khẳng định: "Phục sinh và sự sống chính là Ta, ai tin vào Ta thì dẫu chết cũng sẽ sống và mọi kẻ sống mà tin vào Ta, sẽ không phải chết bao giờ. Ngươi có tin thề không?" Trong câu chuyện Gioan tường thuật ta cứ ngỡ Lazarolà nhân vật chính, nhưng đi sâu vào bài Tin Mừng, ông chỉ là chất xúc tác đặc biệt làm rõ lên tính cách của các nhân vật khác. Dĩ nhiên tất cả các nhân vật đó đều phải tuỳ thuộc vào Đức Kitô. Người đã từng bước dẫn các nhân vật trong câu chuyện từng bước đến ánh sáng Phục Sinh, Ánh Sáng của sự sống lại. Hầu như lúc đó tất cả còn đang trong nỗi sợ hãi và suy nghĩ của người đời, nào là Mátta, nào là Maria và vô số những người Do Thái đang đến chia buồn với họ. Nhân cơ hội này, Đức Giêsu đã đưa họ đến với niềm tin Phúc Sinh. Mặc dầu Đức Giêsu rất thương Lazarô, nhưng Ngài lại quan tâm đến việc quan trọng hơn, đó là đức tin của những người đang có mặt. Và để khẳng định mục đích và ý nghĩa của việc sắp làm, người đã ngước mắt lên mà nói: "ngõ hầu họ tin rằng Cha đã sai Con". Nói thế, Người lớn tiếng gọi Lazarô và ông ra khỏi mồ. Chắc chúng ta cũng không lấy làm bỡ ngỡ, khi Giáo hội chọn Chúa Nhật V Mùa Chay để công bố Tin Mừng Đức Giêsu cho Lazarô Phục Sinh, là dịp để chúng ta đón nhận đại lễ Phục Sinh sắp đến. Quyền năng Thiên Chúa sẽ chiến thắng tử thần. Trong khi Lazarô chết đã 4 ngày được Đức Giêsu cho sống lại, chứng tỏ cho mọi người thấy quyền năng của Thiên Chúa trên sự chết. Sự chiến thắng mà chúng ta sẽ được thấy rõ hơn trong chính sự Phục Sinh của Người. Ngày đó, tử thần hoàn toàn bị đánh bại và niềm hy vọng vào một cuộc sống mới, cuộc sống trường cửu sẽ được ban tặng cho chúng ta. Khi mà con người đã đủ niềm tin vào sự Phục Sinh, thì cái chết như là một sự biến đổi. chính Đức Giêsu đã mở cánh cửa niềm tin cho mọi người, Ngài đã đập tan đêm tối buồn phiền, u mê bằng cách đập tan cửa mồ ngăn cách để đưa con người đến một chân trời hy vọng tràn đầy niềm vui. Người có toàn quyền ban cho ta cuộc sống mới đó. Cuộc sống mà Người đã làm cho người bạn mình là Lazarô. Do đó, Người cũng ban cho chúng niềm hy vọng vào cuộc sống bất diệt trong đó chỉ có tình yêu ngự trị không còn bóng dáng của tội lỗi và sự chết. Như Đức cố Hồng y Px. Nguyễn Văn Thuận đã nói trong đường hy vọng: "Đối với Kitô hữu không có người chết. Tất cả các kẻ chết của chúng ta vẫn đang sống. Họ là chi thể của Chúa Kitô như chúng ta, chúng tôi thông hiệp với nhau trong đức tin". Lạy Chúa! Xin cho con biết hướng về cuộc sống mai sau chính là cuộc sống mà thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng con. Amen. 69. Hành trình đức tinCâu chuyện phép lạ Chúa Giêsu làm cho Ladarô sống lại là câu chuyện dài nhất và quan trọng nhất được nêu lên trong cuộc xét xử giữa ánh sáng và bóng tối. Qua câu chuyện phép lạ này, Chúa Giêsu chứng minh cho mọi người thấy " Người là sự sống lại và là sự sống", và Người có sự sống đời đời đem đến cho những ai tin vào Người. Hôm nay, tôi xin chia sẻ với quý ông bà anh chị em đề tài: Hành Trình Đức Tin. Trong bài tường thuật này, chúng ta thấy Mácta được xem như mẫu gương cho cuộc hành trình đức tin của mỗi người Kitô hữu. Qua diễn tiến của bài tường thuật, tôi thấy cuộc hành trình đức tin của bà trải qua ba giai đoạn sau. Thứ nhất, đó là một đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người. Sở dĩ nói thế là vì khi em bà ngả bệnh nặng, bà sợ em bà sẽ chết, nên bà cho người đi mời Chúa đến cứu em bà. Thế nhưng Chúa không đến và em bà chết. Sự kiện này làm bà buồn rầu và tuyệt vọng. Nhưng đi xa hơn, tôi thấy được giai đoạn thứ hai, đó là một đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy. Bà đã được dạy chỉ có sự sống lại vào ngày tận thế và bà đã tin chắc như thế. Tin như vậy đúng và đủ chưa? Thưa chưa, điều này được thể hiện qua câu nói bà nói với Chúa: "Thưa Thầy, nếu có Thầy ở đây, em con đã không chết". Thế nhưng trước lời đáp Chúa Giêsu khẳng định: "Em bà sẽ sống lại" (c. 23), bà đã nói: "con tin em con sẽ sống lại vào ngày sau hết", và qua đối thoại thêm, bà khựng lại. Chính sự khựng lại này tạo cơ hội cho Chúa mạc khải Người chính là sự sống lại và là sự sống. Và tin vào Người chính là con đường duy nhất dẫn đến sự sống lại và sự sống bởi "tin thì đã đi ngang qua cái chết mà vào sự sống và dù có chết phần xác, thì tin vào Chúa đảm bảo cho có sự sống vượt trên sự chết. Thế mà Mácta vẫn chưa tin như Chúa muốn. Tuy nhiên, đi xa hơn nữa, tôi thấy được giai đoạn thứ ba và cũng là giai đoạn cuối, đó là một đức tin dựa trên kinh nghiệm đã gặp Chúa. Chúa biết bà còn yếu tin, nên Người làm phép lạ giúp khơi dậy đức tin sự sống thật là chính Người. Người đã yêu cầu "đem phiến đá đi" và dù chưa tin bà vẫn vâng lời làm theo lời Chúa nói. Chính vì vậy, Chúa ban thêm đức tin cho bà và qua việc Chúa gọi Ladarô ra khỏi mộ và anh bước ra, cặp mắt tâm hồn bà liền nhận ra Chúa là sự sống lại và là sự sống, tức khắc đức tin của bà đạt đến mức tột đỉnh, một đức tin Chúa muốn những người đi theo Chúa phải đạt được. Thật vậy, cuộc hành trình đức tin của Mácta là một cuộc hành trình tiệm tiến giống như những nấc thang của một cầu thang. Nó khởi đi từ nấc đức tin dựa trên nhu cầu của thân xác con người để đến nấc đức tin đức tin dựa trên những điều đã được truyền dạy và rồi cuối cùng đạt đến nấc tột đỉnh của đức tin khi dựa trên kinh nghiệm gặp Chúa. Giờ đây, chúng ta hãy nhìn lại cuộc hành trình đức tin của mình. Với Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được Chúa ban cho sự sống của chính Chúa. Sự sống này được lớn lên dần nhờ cầu nguyện, nhờ Thánh Thể, nhờ Bí tích Hoà Giải, nhờ kết hợp với Chúa hằng ngày. Tuy nhiên, cuộc đời con người luôn là một cuộc chiến khốc liệt giữa ánh sáng và bóng tối. Ánh sáng là Đức Kitô. Còn bóng tối chính là sự chết, sự tội, những khó khăn thất bại. Chúng luôn tìm mọi cách đẩy chúng ta xa dần ánh sáng. Nếu không ý thức và không tỉnh thức, chúng ta sẽ không nhận ra. Trước những khó khăn thử thách, bệnh tật... Chúng ta thường xin Chúa ban ơn. Và rồi nếu Chúa không cho như ý chúng ta xin, chúng ta thường trách móc, phàn nàn và ngay cả chửi rủa Chúa nữa. Chính những sự này ngăn cản chúng ta nhận ra sự hiện diện và sự trợ giúp của Chúa. Vì vậy, khi những khó khăn thử thách xảy đến, chúng ta hãy coi đây như những phương cách Chúa gởi đến để thanh luyện đức tin của mình và để giúp mình ý thức sự bất lực của mình qua những thách đố đó. Đặc biệt, chúng ta cần đón nhận chúng với thái độ bình tâm, tin tưởng phó thác vào để những người xung quanh nhận ra trong chúng ta sự hiện diện của Chúa. Thí dụ về chiếc thuyền trên dòng sông là một minh hoạ cụ thể cho cuộc sống đức tin của chúng ta. Bình thường nó không di chuyển hoặc di chuyển không đáng kể. Nhưng khi gió bão đến, nếu không được cột, nó sẽ trôi dạt đi rất xa. Còn nếu được cột cẩn thận vào một cây cột đá, thì dù gió bão lớn đi nữa, nó cũng vẫn trụ lại được, có thể nó vẫn di chuyển qua lại. Cuộc sống đức tin của chúng ta cũng giống như chiếc thuyền trên dòng sống vậy. Nếu khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta biết bám chặt lấy Chúa thì chắc chắn chúng ta sẽ vượt qua được vì khi ta đuối sức Chúa không bỏ chúng ta mà giơ taynắm lấy tay chúng ta, vì ở đâu có khó khăn thì ở đó có ơn Chúa. Với tâm tình Mùa Chay, Giáo hội mời gọi chúng ta sám hối, tức là hãy làm sống lại ơn ban sự sống của Chúa trong chúng ta, coi lại xem trước những khó khăn thử thách, chúng ta có thái độ nào? Buông xuôi hay thể hiện một đức tin trưởng thành bằng cách bám vào chúa để tin tưởng, phó thác và làm theo những gì Chúa dạy? Và giờ đây mỗi người tự hỏi: "tôi cần làm những gì và cần tránh những gì để khi giờ chết đến, tôi dám thưa với Chúa: "mọi sự đã hoàn tất", để rồi ra đi cách bình an như Chúa muốn. Amen! 70. Sống ý nghĩa để được sốngĐầu tháng 11.2007, báo chí Tp.HCM đã tốn nhiều giấy mực viết về cái chết của "đoá hoa hướng dương" Lê Thanh Thuý, một cô gái trẻ luôn ấp ủ trong lòng ước mơ cao đẹp. Mọi người gọi cô là "đoá hoa hướng dương" không chỉ vì cô yêu thích hoa hướng dương, mà còn vì cô đã nỗ lực vươn lên dù biết quảng đời còn lại của mình chỉ trải qua từng ngày, từng giờ. Mặc cho căn bệnh ung thư quái ác đang hoành hành và huỷ dần sự sống, cô vẫn vui sống với những chương trình hành động đậm tính nhân văn: lo lắng, chăm sóc cho các bệnh nhi đồng cảnh ngộ. Những dự tính còn trải dài phía trước, nhưng cuộc đời Thuý đã phải dừng lại. Nhiều trái tim rung động, nhiều giọt nước mắt rơi xuống tiễn đưa một đoá hoa luôn hướng về ánh sáng mặt trời. Hôm nay, chúng ta cũng nghe thấy những giọt lệ khóc thương người thân yêu từ bài Tin Mừng. Matta, Maria và bà con láng giềng khóc thương trước cái chết của Lazarô. Anh chết đi khi tuổi đời còn quá trẻ. Người ta yêu quý sự sống, "tham sinh huý tử", nên cảm thấy hụt hẫng, đớn đau trước cái chết của một người thân yêu. Đức Giêsu cũng bồi hồi thổn thức trước nỗi đau của nhân loại. Ngài đến với hai chị em Matta - Maria trong lúc họ đang đau khổ nhất để chia sẻ nỗi đau với họ. Ngài, trong bản tính nhân loại, cũng không cầm được dòng lệ khi người bạn chết đi. Thế nhưng, vượt qua những đau thương hiện tại, Ngài đã loan báo cho gia đình cô Matta và cho cả nhân loại một niềm hy vọng. Đó là sự sống vĩnh cửu có từ nơi Ngài: "Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dù có chết cũng sẽ được sống" (Gn 11,25). Sự sống lại của Lazarô chính là dấu chỉ để mọi người nhận biết Đức Giêsu là Đấng ban sự sống và sự sống lại cho những ai tin vào Ngài. Con người yêu quý sự sống, nhưng cũng cảm thấy sự sống sao mong manh quá. Từ cổ chí kim, người ta luôn tìm kiếm đủ mọi phương dược để được bất tử, hay ít là kéo dài tuổi thọ con người. Nhưng quy luật muôn đời không thay đổi: Ai ai rồi cũng phải chết. Cái chết tạo nên một thử thách cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những người chỉ nhìn thấy sự chết tước đoạt của con người tất cả, nên ra sức sống buông thả, bởi chết là hết. Họ sống theo triết lý Lamã xưa: "Hãy ăn uống no say, vì ngày mai bạn có thể chết". Nhưng cũng có người sống theo quan niệm khác. Họ tin còn có sự sống vĩnh cửu. Họ sống một cuộc sống tích cực, đầy ý nghĩa để chuẩn bị cho cuộc sống đời sau và cái chết không là nỗi sợ hãi đối với họ. Là Kitô hữu, chúng ta tin có sự sống lại. Và sự sống đời đời ấy không bắt đầu khi chúng ta chết đi mà bắt đầu ngay ở đời nầy. Nó được dệt bằng những nỗ lực trong từng công việc hằng ngày của chúng ta. Do đó, trong tất cả mọi việc, dù lớn hay bé, chúng ta hãy làm trong viễn cảnh vĩnh cửu; để nhờ những hy sinh bé nhỏ ngay từ bây giờ, chúng ta sẽ được hạnh phúc khi bước qua cái chết. Nhìn những công việc tốt đẹp của Lê Thanh Thuý, người ta nhận ra nơi cô một tâm hồn quảng đại luôn hướng về sự thiện như đoá hoa hướng dương hướng vế ánh sáng mặt trời. Ước gì mỗi người chúng ta cũng sống thế nào để mọi người nhận thấy chúng ta luôn hướng về Ánh Dương là Đức Kitô, nguồn sống của tất cả mọi người chúng ta. 71. Đức tin.Chúng ta thường nghe nói: - Chết là hết. Những người chủ trương như thế là những kẻ mang nặng đầu óc vật chất, không tin ở đời sau, không hy vọng gì ở một tương lai vĩnh cửu. Còn chúng ta thì khác. Với cái chết, thì một cuộc sống khác được khởi đầu. Có thể là hạnh phúc mãi mãi, nhưng cũng có thể là khổ đau đời đời, tùy theo việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn sống ở trần gian này. Đây là một vấn đề đòi hỏi chúng ta phải tin, như đoạn Phúc âm sáng hôm nay đã diễn tả. Thực vậy, Martha và Maria, đã sai người đến báo tin cho Chúa Giêsu hay: - Lagiarô, bạn thân Chúa đang đau nặng. Thế nhưng cơn bệnh này lại được xử dụng để làm sáng danh Thiên Chúa. Cho dù Lagiarô đã chết nhưng Chúa Giêsu vẫn nói: - Ta mừng vì không có mặt ở đó để các con được tin. Chúa Giêsu và các môn đệ lên đường tới Bêtania. Martha đón Ngài và biểu lộ niềm tin tưởng tuyệt đối của mình: - Lạy Thầy, nếu Thày có mặt ở đây thì em con không chết. Nhưng bây giờ vẫn còn kịp bởi vì con biết rằng: Tất cả những gì Thầy kêu xin thì Thiên Chúa sẽ ban cho Thày. Lagiarô em nàng đã chết nhưng nàng tin tưởng chắc chắn Ngài có thể làm cho nó được sống bởi vì Ngài là Đấng quyền năng. Chúa Giêsu đã trả lời cho Martha: - Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta thì dù có chết cũng sẽ sống, và bất kỳ ai sống và Tin Ta thì sẽ không phải chết bao giờ. Với lời xác quyết vừa trang trọng, lại vừa lạ lùng này, Chúa Giêsu đòi hỏi mỗi người chúng ta phải xác tín như lời Ngài hỏi Martha: - Con có tin điều đó không? Và Martha đã tuyên xưng: - Lạy Thày con tin, Thày là Đức Kitô Con Thiên Chúa, là Đấng phải đến trong thế gian. Nàng biết Chúa Giêsu là Đấng quyền năng, Ngài có thể truyền lệnh cho sự chết cũng như Ngài đã truyền lệnh cho sóng nước. Và Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ, Ngài truyền cho Lagiarô sống lại bước ra khỏi mồ, sau khi đã cầu nguyện và cảm tạ Chúa Cha. Trước sự thật hiển nhiên này, một số người đã tin theo Chúa, thế nhưng một số người khác, nhất là bọn Biệt phái và các thượng tế lại chống đối Ngài một cách quyết liệt hơn nữa. Họ hội họp với nhau và nhất trí kết án tử hình cho Chúa. Cùng một sự kiện mà có người thì chấp nhận, nhưng có kẻ lại từ khước. Đức tin, dĩ nhiên là một ơn huệ của Thiên Chúa, thế nhưng nó không phải là một kho tàng được trao ban một lần thay cho tất cả vì sẽ không bao giờ bị mất đi. Trái lại, đức tin giống như một bông hoa quí nhưng lại dễ tàn và dễ héo, nếu chúng ta không biết chăm sóc cho nó. Chúng ta nói nhiều về đức tin, nhưng thử hỏi được mấy người đã thực sự vun trồng cho đức tin trong cõi lòng của mình. Đức tin không phải là một món ăn được nấu chín và dọn sẵn cho chúng ta, nhưng là một cây được trồng nơi thửa đất là tâm hồn chúng ta. Bởi đó, hãy vun trồng và chăm sóc cho cây đức tin của mình được đâm rễ sâu, vì rễ có sâu thì cây đức tin mới đứng vững được trước những phong ba và bão táp. 72. Rơi lệNgười ta khóc vì nhiều nguyên do. Vui quá cũng khóc; buồn quá cũng khóc; đau khổ hay mất mát quá lớn cũng làm người ta khóc. Khóc là một cảm xúc tự nhiên của con người. Chúa Giêsu trong Tin mừng hôm nay Ngài cũng khóc "Chúa Giêsu rơi lệ". Nhưng tại sao Ngài khóc? Có phải vì Chúa nhớ thương một người bạn thân đã ra đi vĩnh viễn không? Chắc không phải thế đâu, vì Ngài biết việc Ngài sắp làm cho Lazarô là cho anh được sống lại. Vậy có phải Ngài khóc vì thấy có nhiều người khóc thương anh ấy không? Chắc cũng không phải thế, vì Chúa Giêsu không bao giờ chạy theo những tình cảm chóng qua của con người. Vậy tại sao Ngài khóc? Thật ra, trước sự mất mát và đau buồn của tang gia và những người thân, Chúa Giêsu cũng xúc động. Đó cũng là cảm xúc tự nhiên của Con Thiên Chúa làm người. Nhưng nguyên do sâu xa hơn khiến Ngài phải "rơi lệ " và thổn thức là do: 1. Sự cứng lòng tin của người Dothái và niềm tin nửa vời của Mátta và Maria. Trước bao nhiêu việc Ngài làm, bao nhiêu lời Ngài nói mà dân chúng vẫn thờ ơ, nghi ngờ. Thái độ ấy có ngay ở những người thân tín nhất của Ngài. Chúa khóc vì thương cho họ, ví tội nghiệp cho họ. Ngài đã mở mắt cho họ nhưng họ vẫn còn mù tối vì thái độ không cộng tác và những thành kiến cố hủ nơi họ.. Ta cũng hãy nhớ lại, có lần Đức Giêsu cũng dừng chân lại trước của thành Giêrusalem và khóc thương thành: "Giêrusalem, Giêrusalem! Ngươi giết các ngôn sứ và ném đá những kẻ được sai đến cùng ngươi! Đã bao lần Ta muốn tập hợp con cái ngươi lại, như gà mẹ tập hợp gà con dưới cánh, mà các ngươi không chịu. Thì này, nhà các ngươi sẽ bị bỏ hoang mặc cho các ngươi" (Mt 23, 37-38). Đó là tấm lòng xót thương bao la của người cha, người mẹ cho con cái mình. Có người nói rằng: Tại sao Thiên Chúa không hành động theo ý Ngài nếu Ngài thấy điều đó là tốt đẹp cho con người? Câu trả lời là vì Thiên Chúa không muốn biến chúng ta thành những cổ máy Robot. Thiên Chúa đã ban cho con người sự tự do và con người phải chịu trách nhiệm về việc sử dụng tự do của mình. Nếu con người dùng tự do của mình để nghe theo Thiên Chúa, để làm điều thiện theo lời Ngài dạy, thì con người sẽ tìm được hạnh phúc và sẽ mãi mãi sống trong tự do thật sự. Còn ngược lại, con người sẽ phải đau khổ, phải chết và bị trầm luân mãi mãi trong đau khổ. Lời Chúa vẫn còn đó, vẫn âm vang mỗi ngày bên tai và trong lòng chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta có thái độ nào trước lời mời gọi của Chúa mà thôi. 2. Đức Giêsu khóc cũng vì Ngài nghĩ đến cái chết của Ngài sắp xảy đến. Cái chết của Lazarô là dấu hiệu tiên báo về cái chết của chính Đức Giêsu cũng như tiên báo sự chiến thắng tạm thời của Satan. Sự xúc động của Đức Giêsu ở đây cũng giống như tâm tình của Ngài trong cơn hấp hối tại vườn Cây Dầu (Ga 12, 27. 13, 21). Việc Đức Giêsu phục sinh cho Lazarô cho chúng ta thấy quyền năng của Ngài như Ngài đã nói: "Ta là sự sống lại và là sự sống". Hãy vững tin vào Ngài. Chúng ta cũng hãy nhìn xem về thái độ của Mát-ta và Maria. Họ tuyên xưng và tin rằng Đức Giêsu là sự sống và tin Ngài có quyền làm cho kẻ chết sống lại. Nhưng trong thực tế, họ vẫn nghi ngờ. Chúng ta có thể nói được điều đó là vì khi Đức Giêsu bảo "Hãy đẩy tảng đá" ở cửa mộ của Lazarô ra, thì Mátta thưa với Chúa Giêsu rằng: "Thưa Thầy, đã nặng mùi rối vì đã 4 ngày". Thế đấy, tuyên xưng niềm tin bằng tâm tình và bằng lời nói thì xem ra rất dễ. Nhưng đi vào thực tế, thì chúng ta lại rất hay nghi ngờ. Chúng ta cũng hãy xét lại mình xem, tâm tình của chúng ta khi tuyên xưng niềm tin vào Chúa có giống như Mát-ta không? 73. Khóc.Đức Kitô không phải chỉ là một vị Thiên Chúa uy quyền, mà còn là một người như chúng ta. Ngài cũng có một trái tim và trái tim ấy cũng biết rung động, cũng mang lấy những tình cảm dạt dào. Thực vậy, trước sự ngoan cố của bọn biệt phái, Ngài đã nổi giận. Trước sự giả hình của họ, Ngài đã đe loi. Trước sự buôn bán nơi đền thờ, Ngài đã nổi nóng và xua đuổi. Trước cảnh bơ vơ của dân chúng, Ngài đã động lòng thương xót. Trước đám đông đang đói khát vì đã theo Ngài những ba ngày rồi, Ngài đã làm phép lạ cho bánh hóa nhiều để nuôi dưỡng họ. Ngài đã chúc lành cho các em nhỏ, đã chữa khỏi những bệnh hoạn tật nguyền để xoa dịu nỗi đớn đau của dân chúng. Nơi vườn cây dầu, Ngài đã buồn sầu đến nỗi mồ hôi máu chảy ra nhỏ xuống đất. Đặc biệt hơn cả, đó là Ngài đã khóc. Khóc vì Giêrusalem sẽ bị đổ vỡ hoang tàn. Khóc vì thương xót Lagiarô. Tuy nhiên, Ngài luôn giữ được thế quân bình trong đời sống tình cảm. Trước tình thế căng thẳng nơi vườn cây dầu, Ngài vẫn sẵn sàng vâng phục thánh ý Chúa Cha. Lúc phải đau khổ tới tột cùng, Ngài luôn nhớ tới mục đích mình theo đuổi. Ngài đã bình tĩnh trước phong ba bão táp, Ngài đã tha thứ cho kẻ thù trong cơn hấp hối. Tóm lại, đời sống tình cảm của Ngài hoàn toàn khác xa chúng ta. Ngài luôn làm chủ được tình cảm của mình trong mọi hoàn cảnh. Những tình cảm ấy luôn hướng thiện và không bao giờ quên lãng mục đích. Luôn hòa hợp vâng phục lý trí và thúc đẩy cho việc làm. Chẳng hạn khi Ngài khóc thương trước nấm mồ Lagiarô, thì người Do Thái đã coi đó là dấu chỉ Chúa yêu thương ông cách riêng. Chúa khóc vì thần chết đang khống chế loài người. Chúa khóc vì chính Lagiarô sẽ là dịp cho người Do Thái ghen tức và vấp phạm. Chúa khóc vì sự ngoan cố của bọn biệt phái, phủ nhận uy quyền của Thiên Chúa. Chúa khóc vì lòng tin của chị em Martha chưa được hoàn hảo. Còn chúng ta, chúng ta đã khóc như thế nào? Trước một đám tang, có người khóc chỉ vì a dua, khóc mướn, khóc theo kiểu chặng đàng thứ tám. Khi một kẻ thân yêu chết đi, nhiều người trong họ hàng cũng đã khóc. Cái khóc ấy chưa hẳn đã là vì thương người nằm xuống, mà có khi chỉ vì thương chính bản thân mình, là kẻ còn lại phải đơn côi, phải bơ vơ không ai nương tựa. Ay là chưa nói đến những hoàn cảnh mượn tiếng khóc để chửi xéo lẫn nhau, nhất là đối với các bà các cô. Thực vậy, người ta thường bảo nước mắt các bà các cô có thể là một đập nước, nhưng cũng có thể là một trận lụt. Và tệ hơn nữa, nhiều người đã đổ ra những giọt nước mắt cá sấu, tức là những giọt nước mắt giả dối và lừa đảo, có thể ăn sống nuốt tươi kẻ khác. Trong đời này, người ta thường khóc khi vui cũng như lúc buồn. Ay là chưa nói đến những kẻ khóc trong lúc say xỉn, khóc không có lý do. Tuy nhiên, lại có những kẻ chẳng khóc bao giờ, bởi vì lương tâm họ đã chai lỳ, đã băng giá, không còn nhạy cảm trước những nỗi đau thương. Họ không khóc đã đành mà tệ hơn nữa còn làm cho người khác phải khóc vì họ. Tóm lại, khóc là một nhu cầu, chúng ta khóc phần lớn là do kết quả của một nỗi khổ tâm hay một niềm đau đớn nào đó. Thế nhưng, điều quan trọng đó là hãy biết khóc cho cuộc đời tội lỗi của mình. Chính cuộc đời tội lỗi này đã làm cho Chúa phải khóc và làm cho Giáo Hội đau buồn. Đó là những giọt nước lệ làm mờ nhạt đôi mắt nhưng lại làm sáng tâm hồn. Và hơn thế nữa, trong Mùa Chay, hãy biết khóc lóc ăn năn tội lỗi để được thứ tha. 74. Người bạn.Có một câu chuyện huyền thoại kể lại rằng: hàng năm bộ lạc kia phải hiến tế một người con gái cho thủy thần. Vị tộc trưởng của bộ lạc là một người rất yêu quý gia đình, có một người con gái duy nhất lại bắt trúng thăm phải làm vật hiến tế. Ông vô cùng đau khổ, nhưng không thể vi phạm tục lệ của bộ lạc được. Phải làm sao bây giờ khi ngày phận số đã gần đến và chính ông tộc trưởng cũng không thể nào chủ tọa nổi nghi thức hiến tế này. Những người có uy tín trong bộ lạc nghĩ rằng ông sẽ không đủ can đảm hoàn thành trách nhiệm của mình. Sau cùng, ngày đó đã đến, người ta đoán rằng hoặc là họ sẽ phải cử hành nghi thức hiến tế mà không có mặt của ông tộc trưởng, hoặc là truyền thống sẽ bị hủy bỏ. Họ đặt người con gái xinh đẹp của ông tộc trưởng vào một con thuyền nhỏ, rồi đẩy ra dòng sông. Khi con thuyền bồng bềnh trôi nổi trên dòng sông, với sự kinh ngạc, họ trông thấy một con thuyền khác ẩn nấp trong những bụi cây cũng từ từ trôi ra dòng sông. Và trong ánh sáng mập mờ, họ đã nhận ra người ngồi trong thuyền kia chính là ông tộc trưởng của họ, cha của cô gái. Ngay lập tức, cả hai chiếc thuyền bị cuốn hút mạnh mẽ vào dòng nước đang chảy xiết ra giữa sông. Cả hai cha con đã cùng rơi xuống con thác chung với nhau! Thiên Chúa cũng không thể chịu được khi nhìn thấy con người chết trong tội lỗi. Bởi thế, Chúa Giêsu đã chấp nhận cùng chết với chúng ta, để chúng ta được sống như thánh Gioan đã nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hôm nay trong bài Phúc âm, Gioan đã diễn tả tình cảm của Chúa Giêsu đối với người bạn Lagiarô đã chết và thương cảm cho những người thân yêu trong cơn đau khổ muộn phiền: “Thấy Maria khóc, và những người Do Thái đi với cô cũng khóc, Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến”. Với chủ đề “Thiên Chúa là Tình Yêu”, Gioan muốn cho người Hy Lạp thấy rằng Thiên Chúa của người Kitô hữu là một Thiên Chúa có trái tim biết rung động trước những phiền muộn, đau khổ và thất vọng của con người, nhất là đứng trước sự chết. Không có sự tuyệt vọng và đau khổ nào cho bằng cái chết của những người thân yêu của chúng ta. Maria và Mátta đang buồn phiền và đau khổ vì cái chết của em trai mình là Lagiarô. Họ nhắn tin cho Chúa Giêsu biết từ khi Lagiarô đang đau nặng với hy vọng sẽ được cứu khỏi bệnh, nhưng Ngài đã không về đúng lúc. Bà Mátta đến gặp Chúa Giêsu trên đường gần về tới Bêtania, đã thốt lên những lời trách móc có vẻ thất vọng: “Thưa Thầy, nếu Thầy có mặt ở đây thì em con không chết”. Phải, cuộc sống nhân sinh bắt chúng ta phải nếm mùi đau khổ của sự chết. Nhưng qua câu chuyện làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã hứa hẹn cho chúng ta niềm hy vọng: “Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống. Ai sống và tin vào Thầy, sẽ không bao giờ phải chết”. Có lẽ trong đau buồn vì mất mát, chúng ta chưa hiểu được chương trình và kế hoạch của Thiên Chúa, nhưng chúng ta phải hy vọng vào Người. Vào thời Chúa Giêsu, những người Sađuxê không tin vào sự sống lại. Ngài đã mạnh mẽ nói với họ rằng: “Các người không biết Thánh Kinh và cũng không biết quyền năng của Thiên Chúa. Các người sai lầm rồi”. Niềm hy vọng vào sự sống lại của những người đã chết được Thiên Chúa mạc khải dần dần, dựa trên niềm tin vào Thiên Chúa. Ngài “không phải Thiên Chúa của những người chết, nhưng của những người sống”. 75. Người bạn.Nhiều nhà tu đức đã ví cái chết như một con đường hầm dẫn sang một thế giới khác. Trước khi có đường hầm từ Pháp qua Anh, thì đường hầm dài nhất thế giới dành cho xe hơi sử dụng là đường hầm The Mont Blanc dài 11 cây số, dưới rặng núi Alps từ nước Ý Đại Lợi sang Thụy Sĩ. Người dân Thụy Sĩ đã cắt nghĩa sự đẹp đẽ của xứ sở họ bằng cách nói rằng khi Thiên Chúa hoàn tất công việc sáng tạo thế giới, Ngài thấy nó đẹp đẽ và hoàn hảo, nên đã hôn thế giới một cái. Và nước Thụy sĩ chính nơi Thiên Chúa đã đặt nụ hôn. Năm 1965 khi đường hầm Mont Blanc hoàn tất. Một người đàn ông Ý cùng với một nhóm người đã được mời lái xe xuyên qua đường hầm này lần đầu tiên. Bà vợ của ông rất nhút nhát, sợ hãi và tự hỏi rằng không biết chồng bà có ra khỏi đường hầm mà còn sống không. Vì thế người đàn ông này đã không đi hết đường hầm. Đi được nửa đường ông quay trở lại Ý, và vợ ông rất sung sướng vì chồng bà trở về nhà an toàn và mạnh khỏe. Bởi ông quay đầu trở lại nên đã không trông thấy và viếng thăm được quang cảnh đẹp đẽ của quốc gia Thụy Sĩ ở phía bên kia núi. Đây chính là trường hợp của Lagiarô. Lagiarô đã đi vào con đường hầm của sự chết. Đi được nửa đường Lagiarô đã quay trở ra: “Lagiarô! Hãy ra đây!” Người đã chết đi ra, chân tay còn quấn những mảnh vải…” Lagiarô đã xuất hiện với cùng một thân xác như khi đi vào mồ. Trường hợp này gọi là hồi tỉnh lại, nhưng rồi sau cùng, ông sẽ lại chết, dân chúng lại phải mai táng ông lần nữa! Thiên Chúa là Đấng có quyền trên sự sống của con người. Ngài hứa ban sự sống lại vào ngày sau hết cho những ai tin vào Ngài. Ngài đã nối kết niềm tin vào sự sống lại của con người với niềm tin vào chính sự sống lại của Ngài: “Ta là sự sống lại và là sự sống”. Ngài đã diễn tả sự sống lại của Ngài vào bữa tiệc ly trước khi chịu đóng đinh: “Ta đi để dọn chỗ cho các con”. Ta là đường, là sự thật và là sự sống”. Ngài đã loan báo sự Phục sinh của Ngài, ngày thứ ba sau khi bị giết. Chúa Giêsu hứa hẹn cho chúng ta sự sống lại. Nhưng sự sống đó như thế nào vẫn là một sự bí ẩn. Con đường hầm của sự chết thế nào, cái thế giới cảnh đẹp ở bên kia ra sao vẫn là điều bí mật. Sách Giáo lý Công Giáo số 1000 nói: “Cái “thế nào” đó vượt quá sức tưởng tượng và sự hiểu biết của chúng ta, và chỉ đạt được bằng đức tin”. Một gia đình người Mỹ vừa di chuyển từ tiểu bang California sang Chicago. Sau khi cả gia đình sang Chicago mướn nhà ở và ổn định mọi sinh hoạt rồi mới nhờ một gia đình hàng xóm ở California gửi sang cho họ hai con mèo. Nhìn thấy hai con mèo được gửi bằng máy bay từ Cali sang Chicago đoàn tụ với chủ, chúng ta có thể hình dung ra những gì đã xảy ra với chúng trước khi vui mừng gặp lại chủ. Có lẽ người hàng xóm tốt bụng đã phải đưa hai con mèo ra phi trường, đặt chúng vào chiếc lồng nhỏ, rồi gửi lên máy bay. Trong lòng máy bay đen tối, chắc là hai con mèo phải sợ hãi, lo âu và kinh hoàng lắm. Chúng kêu “meo meo” như để cầu cứu nhưng chẳng có ai đáp trả. Kêu riết rồi đành im lặng nằm co ro phập phồng lo sợ. Chúng không biết điều gì sẽ xảy ra trong lòng máy bay u tối. Cũng không biết đang đi về đâu nữa. Chiếc máy bay quá lớn so với hai con mèo bé nhỏ. Thật đáng sợ! Khi máy bay đáp xuống phi trường Chicago, cả gia đình người Mỹ, nhất là mấy đứa trẻ, đang nao nức chờ đón hai con mèo. Hằng giờ nằm trong lòng máy bay đen tối, choáng váng, vừa nhìn thấy chủ hai con mèo kêu lên mừng rỡ: “Meo! Meo!”. Trước khi lên máy bay những tiếng kêu meo meo là lời cầu cứu, lo sợ và van xin. Bây giờ là những tiếng kêu vui mừng vì gặp lại những người thân quen. Chúng cảm thấy bình an nép mình dưới cánh tay vuốt ve âu yếm của đám trẻ. Cuộc du hành đi vào thế giới bên kia của chúng ta có khác chi đoạn đường nằm trong lòng máy bay tăm tối và bí ẩn của hai con mèo. Đối diện với sự chết chúng ta sợ hãi, lo âu, vì không biết đời sau như thế nào. Nhưng tin tưởng vào Thiên Chúa là Chúa của sự sống, chúng ta sẽ sống lại, gặp gỡ Thiên Chúa là Đấng nhân hậu cùng với tất cả những người thân yêu thánh thiện của mình. 76. Người rung chuông chân thật!.Bài Tin Mừng hôm nay kể lại một thanh niên tên Lagiarô sống tại thành Bêtania qua đời. Chúa Giêsu là bạn của Lagiarô nhận được tin ấy thì Ngài đến Bêtania và đã làm thay đổi tất cả câu truyện. Sau khi nói với Martha là chị của Lagiarô rằng: "Em con sẽ sống lại... Ta Là Sự Sống Lại Và Là Sự Sống", Ngài đã làm cho Lagiarô sống lại (Ga 11:23, 25). "Ta là sự phục sinh và là sự sống", những lời đó nên hiện thực vào ngày đầu Chúa Nhật Phục Sinh. Rồi từ đó những người theo Chúa Giêsu nhận ra rằng Chúa Toàn Năng hiện diện trong cái chết của Đức Kitô để tiêu hủy sự chết. Hãy nghĩ về điều ấy! Chết là kẻ thù lớn nhất của cả nhân loại đã bị quật ngã vĩnh viễn. Hãy suy niệm điều này là: Phép lạ Phục Sinh mà Chúa Giêsu đã làm cho Lagiarô xưa thì nay Ngài vẫn thực hiện trong mỗi người chúng ta! Tiến trình đi từ cõi chết đến phục sinh đang được thể hiện ngay trong lúc này và từng mỗi giây phút suốt đời chúng ta. Bởi vì cái thuộc về chúng ta là Đức Tin Phục Sinh, chúng ta biết rằng một thế giới mới đang đến: đến trong hân hoan, bình an, yêu thương và tình huynh đệ. Quyền Năng Phục Sinh của Chúa đang hoạt động để xây đắp một thế giới mới ở giữa và xung quanh chúng ta. Tôi xác nhận là tôi đang nói đến thế giới điên cuồng, xáo trộn, nghi ngờ, ô nhiễm, nhân mãn, và tàn phá này. Thế giới này đây! Thiên Chúa thương nó, thật sự Ngài thương nó! Điều ấy thật khó mà tin được trong một vài ngày. Chỉ cần bật TV lên xem tin thời sự lúc 10giờ tối mỗi ngày cũng đủ để một người phải tự hỏi: "Thế giới này còn có hy vọng không?" Bạn hãy thử nhìn những sự việc đang xảy ra xung quanh bạn và bạn nhớ đến câu nói bất hủ trong "Cánh Đồng Xanh" khi Gabriel nói: "Mọi thứ cắm xuống đất đang bị lỏng ra". Đó là tình trạng thế giới ngày nay, mọi thứ cắm xuống đất coi bộ đang lỏng dần! Nếu như bạn có thể tin vào những bản thẩm tra quốc gia thì chẳng cách chi bạn có thể dựa vào tôn giáo để xin giúp. Mỗi năm, các thẩm viên đi khắp Hoa Kỳ để hỏi mọi người cùng câu hỏi này: "Bạn có cảm thấy tôn giáo đã mất ảnh huởng trên đời sống người dân Hoa Kỳ không?" Và số phần trăm trả lời là "có" cứ tăng dần theo mỗi năm. Có tới bảy mươi lăm phần trăm trả rằng: "Đúng vậy, tôn giáo đang mất dần ảnh hưởng trên người dân Hoa Kỳ". Cứ bốn người thì hết ba người nói có! Đó là tình trạng thế giới mà chúng ta đang sống hiện nay. Bạn sẽ không nắm giữ Lời Chúa Giêsu cách thiết thực nếu như bạn không tin thật rằng Thiên Chúa đang hoạt động ngay trong thế giới này đễ làm mới lại mọi sự. Một thế giới mới đang đến. Thiên Chúa đang thực hiện điều này và chẳng sự gì có thể ngăn cản thánh ý Chúa. Đây chính là niềm Hy Vọng Phục Sinh của chúng ta. Niềm Tin Phục Sinh chắc chắn của chúng ta nơi Chúa Giêsu: "Ta là sự sống lại và là sự sống; ai tin vào Ta, thì có chết cũng sẽ được phục sinh" (Ga 11:26). Tuy nhiên như thế chưa hết đâu mà còn có nhiều sự hơn thế nữa. Một bác sĩ kể một câu chuyện cảm xúc về một người mẹ Kitô giáo chăm sóc đứa con năm tuổi của bà đang nằm chờ chết trong nhà thương với cơn đau dằn vặt vì căn bệnh ung thư như sau: Suốt buổi sáng đó, cô y-tá và những nhân viên nhà thương nghe em nhỏ lập đi lập lại nhiều lần: "Em nghe có tiếng chuông! Em nghe có nhiều tiếng chuông! Chúng đang rung lên kìa!" Khi mẹ em đến và hỏi thăm y-tá xem tình trạng em bé như thế nào. Cô y-tá trả lời: "Thật tội nghiệp, em bị mê sảng suốt ngày hôm nay. Có thể là do ảnh hưởng thuốc đó. Em chỉ nói sảng là em nghe thấy các tiếng chuông reo". Nghe nói thế, người mẹ trở nên tươi tỉnh như hiểu điều gì đó, bà nói: "Thưa cô, con tôi không phải bị mê sảng mà cũng chẳng phải tại thuốc hành đâu. Tuần trước tôi có nói với bé là khi nào bé thấy cơn đau ở ngực dữ dội hơn, khi ấy bé sẽ biết là bé sắp rời tôi rồi đấy, nghĩa là bé sẽ lên thiên đàng. Khi bé cảm thấy thật đau, bé hãy nhìn lên góc tường -- nhìn lên thiên đàng -- và lắng nghe tiếng chuông thiên đàng vì các thiên thần sẽ rung chuông cho bé nghe!" Nói xong, bà lặng lẽ vào phòng con của bà, bà ẵm em bé lên và đong đưa bé trong lòng bà cho đến khi những tiếng chuông chỉ còn là dư âm và em bé đã về thiên đàng. Vị bác sĩ nói: "Người đàn bà tuyệt vời đó đã cảm nghiệm một thực tại khác biệt với những đau khổ đang xảy ra!" Trong bài Tin Mừng hôm nay, qua việc làm cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu đã cho chúng ta một định nghĩa chân thật tuyệt vời về đời sống -- một người rung chuông thành thật! "Sự sống mạnh hơn sự chết", Ngài đã nói với chúng ta điều ấy. Vào ngày giờ của Chúa, thế giới này sẽ biến đổi thành mới lạ khác biệt với những gì chúng ta đang thấy hiện nay. 77. Mở cánh cửa lòngAnh chị em thân mến. Có lần tôi đến nhà một người quen, sau những câu chào hỏi xã giao, tôi được mời vào nhà. Chủ nhà hết sức lịch sự, mời khách ngồi rồi lo tìm xem có gì để đãi khách. Chủ nhà mở cánh cửa tủ lạnh ra, tôi nhìn thấy có rất nhiều thứ trong đó: thức uống, thức ăn, những thứ dùng ngay được, cũng có những thứ chỉ để dự trữ dùng cho việc nấu nướng. Chủ nhà mang cho tôi trái cây và nước. Tôi vui mừng cám ơn và dùng với gia chủ. Tôi chợt có chút suy nghĩ: nếu cánh cửa tủ lạnh không mở ra, thì tất cả những thứ hết sức cần thiết trong đó, kể cả những thứ mà tôi dùng với chủ nhà, cũng trở nên vô ích. Nhưng vì cánh cửa được mở, và những gì trong đó được đem ra xử dụng đúng với chức năng của nó, nên tạo được sự khoan khoái cho nhiều người. Ngôi mộ đã chôn vùi Lazarô trong đó, tảng đá lấp cửa đã được đóng kín. Con người của Lazarô trở nên vô ích, vì ông đã bị đóng kín. Nhưng Chúa Giêsu không để cho người bạn thân của Ngài phải chịu cảnh như thế, Ngài không để cho bạn thân của mình trở nên vô ích. Ngài làm một việc mà với khả năng con người không thể hiểu nỗi: một người đã bị chôn vùi bốn ngày mà giờ đây Ngài lại bảo mở cửa cho bước ra. Việc làm của Ngài đem lại sự ngạc nhiên cho những người thời bấy giờ. Họ muốn chôn vùi đi những gì là vô ích, những gì họ cho là hôi thối. Còn Chúa Giêsu thì bảo hãy lăn tảng đá ra, Ngài kêu con người từ cõi chết sống lại, Ngài còn bảo hãy cởi những dây băng trói buộc ra. Một sự ngạc nhiên thật sự cho mọi người, Lazarô không còn bị đóng kín trong mồ, anh ta đã sống lại. Anh ta không còn nằm yên bất động, vì anh ta nghe lời mời gọi và bước ra khỏi mồ. Anh ta giờ đây đã hoạt động bình thường vì anh ta đã được tháo cởi tất cả những gì đã trói buộc anh, giờ đây anh là một người hữu dụng như bao nhiêu người khác. Lazarô sống lại vì cửa mồ được mở ra, anh ta đi lại và hoạt động được vì những gì trói buộc anh đã dược tháo cởi. Nếu mọi người không giúp đở cho anh, không thực hiện lời Chúa Giêsu chỉ bảo, nếu mọi người chỉ biết ngồi nhìn một Lazarô đã hết phương cứu chữa, thì làm sao có một phép lạ, làm sao có được một sự sống hồi sinh. Chúa Giêsu cũng lập lại lời ngày xưa, với những người hôm nay: " Hãy lăn tảng đá ra, hãy cỏi trói cho anh ta ". Chúa Giêsu nói với từng người trong chúng ta như thế. Nhưng chúng ta chưa chứng kiến được phép lạ, chúng ta cũng không nhìn thấy được sự sống mới nào, vì chúng ta không lắng nghe lời Chúa, nên ngồi yên bất động. Chúng ta ngồi yên bất động trong định kiến của mình, bất động vì bị sự lười biếng trói buộc, bất động vì sự tự hào của sự hiểu biết và những phán đoán khắc khe. Hay chúng ta tự bào chữa cho mình rằng: mình đang giữ đạo tốt, đọc kinh dự lễ hằng ngày, thỉnh thoảng cũng bố thí giúp người nghèo. Với bấy nhiêu việc làm đó, chúng ta cho là mình đã nghe lời Chúa rồi sao? Còn cái nhìn của mình về người khác thì sao? Chúng ta cho họ một phán đoán thật nghiêm khắc: họ hết phương cứu chữa, họ đã hôi thối rồi. Những lúc đó nếu chúng ta biết lắng nghe lời Chúa: " Hãy lăn tảng đá ra ", lăn tảng đá đậy kín tâm hồn của mình ra, để tâm hồn được mở rộng, thì phép lạ trong cuộc sống sẽ được thưc hiện ngay. Mở rộng cánh cửa tâm hồn cũng như mở cánh cửa tủ lạnh ra thì những gì cần thiết phục vụ cho con người mới đem ra được. Còn nếu cánh cửa cứ đóng kín thì mọi vật trở nên vô ích. Nếu chúng ta biết đứng lên và bước đi đến với những người chung quanh để giúp đở họ khi họ cần đến, đó là chúng ta tự cởi những dây băng trói buộc mình. Tự cởi bỏ đi những hiềm khích nhỏ nhen, ích kỷ để biết cho đi những nụ cười thông cảm, những lời nói yêu thương, những sự giúp đỡ chân thành. Khi đó cũng là lúc chúng ta lăn được tảng đá đậy kín tâm hồn của mình ra, mà đem những gì tốt đẹp tiếp đãi mọi người. Nếu làm được như thế, phép lạ được thực hiện ngay, chúng ta nhìn thấy được một sự sống mới hình thành nơi bản thân mình và nơi người khác. Chúng ta vui mừng vì thấy người khác được hạnh phúc, được an ủi, được hy vọng nhờ sự cởi mở của mình. Khi đó chính chúng ta đã được sống lại nhờ biết nghe theo lời kêu mời của Chúa. Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết lắng nghe lời Chúa, biết mở rộng tâm hồn, để đón nhận sự sống mới, sự sống vĩnh cửu từ nơi Chúa. 78. Sự sốngTại thế vận hội ở Los Angeles vào mùa hè năm 1984, võ sĩ Jeff Blatnik của Hoa Kỳ đã giành huy chương vàng về bộ môn đô vật. Khi trận đấu kết thúc, anh đã không vui mừng nhảy lên nhảy xuống, hay vung tay lên trời, cũng như không mỉm cười cúi chào đám đông. Trái lại, anh chỉ đơn giản quỳ gối xuống, cúi đầu cầu nguyện và làm dấu thánh giá. Hình ảnh này đã được chiếu trên màn ảnh truyền hình và người ta đã trông thấy những giọt nước mắt chảy xuống trên gò má anh. Anh khóc không phải chỉ vì đã đạt huy chương vàng, mà còn khóc vì cách đó 2 năm, anh đã mắc phải bệnh ung thư, và trước trận đấu 18 tháng, anh đã phải giải phẫu. Vậy mà giờ đây, khi dấn thân vào trận đấu quan trọng này, anh đã đoạt được chiến thắng lớn nhất trong đời mình. Với những giọt nước mắt này, anh đã thực sự lôi cuốn và hấp dẫn mọi người, cũng như đã trở nên giống chúng ta một cách tuyệt vời và đầy cảm động. Qua đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta cũng thấy được nét đẹp tuyệt vời và đầy cảm động ấy nơi Chúa Giêsu. Chúng ta nhìn thấy Ngài, là Con Thiên Chúa, nhưng đã khóc bên nấm mồ của Ladarô. Từ đó, chúng ta khám phá ra bản tính con người của Ngài. Chính bản tính con người ấy làm cho Ngài trở nên giống chúng ta. Bởi vì Ngài đã từng chịu đói, chịu khát, chịu mệt mỏi, chịu đớn đau, cho nên Ngài sẽ hiểu chúng ta hơn, khi chúng ta lâm vào những cảnh huống như thế, như người xưa đã bảo: Đoạn trường ai có qua cầu mới hay. Và như vậy, Ngài hiểu rõ thân phận chúng ta. Và chính sự hiểu biết này đem lại cho chúng ta hiềm vui mừng và hy vọng. Tuy nhiên đoạn Tin Mừng còn chuyển đến cho chúng ta một sứ điệp khác cũng không kém phần quan trọng, đó là Chúa Giêsu không phải chỉ khóc thương Ladarô, mà còn làm cho anh ta được sống lại. Điều đó chứng tỏ, Ngài không phải chỉ là một người như mọi người, mà Ngài còn là Con Thiên Chúa, đầy quyền năng. Với bản tính con người, Ngài cảm thông và chia sẻ với chúng ta. Còn với bản tính Thiên Chúa, Ngài nâng đỡ và trợ giúp chúng ta, trao ban cho chúng ta nguồn sức mạnh và thực hiện những điều chúng ta van xin, kêu cầu. Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác bản thân cũng như cuộc đời cho Chúa vì Ngài là Thiên Chúa quyền năng, đồng thời là một người Cha nhân từ và khoan dung, hằng yêu thương chăm sóc đến mỗi người chúng ta. 79. Sự sống.Đối với nhiều người Việt Nam, sự chết không nhất thiết là điều đáng sợ. Người xưa coi chết là mãn kiếp, tức là hết đời sống, nên thường ung dung thư thái đón chờ cái chết và chuẩn bị cho cái chết của mình ngay những tháng năm còn khoẻ mạnh. Chẳng hạn như mua sắm quan tài và những đồ khâm liệm đề phòng khi cái chết đến. Cho nên ông Nguyễn Khuyến, vì không muốn phí phạm xa hoa, nên đã căn dặn con cái: - Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt, Kín chân tay đầu gót thì thôi. Trong khi đó, người Tây phương thì không làm như vậy. Họ không sắm sẵn quan tài và những đồ khâm liệm. Thậm chí, họ còn sắp xếp để người thân yêu của mình không chết trong gia đình. Tốt hơn nên để người đó chết ở bệnh viện, rồi từ đó đưa thi hài người quá cố, tới quàn tại nhà xác trước khi đưa tới nhà thờ, và từ nhà thờ đưa thẳng ra nghĩa địa. Còn Chúa Giêsu, Ngài nghĩ gì về cái chết? Theo Cựu Ước, người Do Thái không quan niệm chết là hồn lìa khỏi xác, vì đó là quan niệm của người Hy Lạp. Còn người Do Thái thì cho rằng chết là mất hết sự sống. Với phép lạ cho Lagiarô sống lại, Chúa Giêsu không quan tâm đến việc tìm hiểu xem sự sống và sự chết là gì, nhưng điều chính yếu Ngài muốn gởi gấm, muốn xác quyết: Ngài chính là sự sống lại và là sự sống. Đây cũng là một chủ đề được đề cập đến nhiều lần qua Tin Mừng theo thánh Gioan. Với người phụ nữ Samaria bên bờ giếng Giacob, Ngài xác quyết: Nước Ta ban sẽ vọt lên đem lại sự sống đời đời. Sau phép lạ bánh hoá nhiều, Ngài nói với người Do Thái: Ta là bánh ban sự sống. Nơi khác Ngài bảo: Ta là ánh sáng mang lại sự sống. Có lần Ngài đã mạnh mẽ công bố: Ta là đường, là sự thật và là sự sống. Mục đích của Ngài đến trong thế gian là gì, nếu không phải là để cho chúng ta được sống và được sống một cách dồi dào. Và để thực hiện mục đích này Ngài đã phải trả một cái giá thật đắt bằng chính mạng sống của Ngài với cái chết trên thập giá. Ngài đã sánh ví mình như hạt lúa được gieo trên ruộng đồng, có mục nát đi, thì mới sinh nhiều bông hạt. Ngài đã sánh ví mình như người mục tử nhân lành, hiến mạng sống vì đàn chiên. Và chính Ngài đã thực hiện lời giảng dạy: Ta đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống mình là giá cứu chuộc cho nhiều người. Qua cái chết của mình, Ngài đã đem lại cho chúng ta ơn cứu độ, cũng như biểu lộ được tình yêu tuyệt vời Ngài đã dành cho chúng ta, bởi vì không ai yêu hơn người liều mạng sống mình vì bạn hữu. Để chuẩn bị bước vào tuần thánh, chúng ta hãy suy gẫm lời thánh Phaolô: Chúa đã yêu thương tôi và đã nộp mình chịu chết vì tôi. 80. Cái chết của LagiarôĐau khổ không miễn trừ cho một ai. Nó ngự trị ở mọi nơi và trong mọi lúc. Ngày nọ nó đã đột nhập và một căn nhà tại Bêtania. Hôm đó, Ladarô cảm thấy khó chịu và đi nằm. Mặc dù Martha đã chăm sóc kỹ lưỡng mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Còm Maria thì đã cầu nguyện để em mình được chóng bình phục. Thế nhưng tình trạng mỗi ngày xấu đi và cái chết kể như nằm gọn trong lòng bàn tay. Họ đã làm tất cả những gì để cứu sống người em của mình, nhưng bóng dáng tử thần lại cứ chập chờn lượn quanh. Cả hai đều mang cùng một tâm trạng, cùng một ý nghĩa đó là: Nếu Chúa Giêsu có mặt ở đó, thì dứt khoát Ladarô sẽ không chết. Bởi vì Người đã chữa lành biết bao nhiêu kẻ bệnh hoạn tật nguyền. Chẳng lẽ Người lại bỏ rơi người bạn thân của Người hay sao? Thế rồi hai chị em đã sai người đi báo tin cho Chúa Giêsu: Lạy Thầy, người Thầy yêu thương đang đau nặng. Lời báo tin này vừa tế nhị vừa tin tưởng. Họ không hề đòi hỏi hay bắt buộc Chúa. Trái lại với niềm tin tưởng tuyệt đối, họ để tuỳ Người hành động và Ngài sẽ giúp đỡ họ cách thức nào mà Ngài cho là tốt đẹp và hữu hiệu hơn cả. Cách thức báo tin của Martha và Maria cũng là một khuôn mẫu giúp chúng ta cầu nguyện mỗi khi gặp phải những gian nguy thử thách, những bất hạnh buồn phiền, chẳng hạn như đau yếu, thất bại, tang tóc. Vị linh mục đến thăm một bà mẹ, có đứa con lâm bệnh nặng. Hoặc an ủi bà ta, khuyên nhủ bà ta vui lòng chịu đựng theo thánh ý Chúa, xác quyết với bà ta rằng: Nếu đứa nhỏ có chết đi, sẽ trở thành một vị thánh bầu cử cho bà trước mặt Chúa. Nhưng người mẹ trong cơn đau đớn đã trả lời: Không, tôi không muốn nó phải chết. Nếu Chúa cất nó về thì tôi sẽ bỏ đạo. Ít lâu sau, đứa bé được bình phục. Nhưng ngẫm nghĩ cho cùng, thà nó chết đi không khéo lại hay hơn. Bởi vì với sự cưng chiều của người mẹ nó đã lớn lên và trở thành một thanh niên hư hỏng. Sau cùng, trong một dịp say xỉn, nó đã đâm chết một người bạn, rồi vượt biên trốn ra nước ngoài. Người ta không còn nghe nói gì về nó. Nhưng rồi một hôm, người mẹ bất hạnh ấy nhận được tin từ một người thân ở bên Mỹ cho biết: đứa con ngỗ nghịch ấy đã bị toà án bên Mỹ xử tử hình vì tội cướp của giết người. Trong những giờ phút khổ đau, chúng ta hãy thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, người Chúa yêu thương đang đau nặng. Chắc hẳn Ngài sẽ lắng nghe lời van xin của chúng ta. Bởi đó hãy tin tưởng và phó thác vào tình thương cũng như quyền năng của Chúa, chắc chắn Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Trái lại, Ngài sẽ hành động và trợ giúp chúng ta bằng cách thức nào đem lại nhiều lợi ích nhất. 81. Sự sống đời đờiGn 11, 1-45: Ta là sự sống lại và là sự sống... Anh chị em thân mến, Chúa Giêsu nói với bà Matta: "Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống." Qua câu nói này, chính Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy Người là Đấng Cứu Thế, là Con Thiên Chúa, là chính Thiên Chúa, Đấng ban sự sống và sự sống lại cho tất cả những ai tin nơi Người. Chúng ta thấy chưa từng có vị sáng lập đạo nào tự xưng mình là Sự Sống lại và là Sự Sống. Thực tế, người công giáo không hề đề cao Chúa Giêsu, hay vì kính trọng mà tâng bốc Thầy mình. Phép lạ cho Ladarô sống lại, chính là để chứng tỏ cho mọi người thấy Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên sai và cũng là Thiên Chúa nữa...Đây chính là điều mà Hội thánh muốn chúng ta suy niệm trong ngày Chúa nhật 5 Mùa Chay này. a/. Trước hết xin tìm hiểu một vài câu: * Phép lạ cho Ladarô sống lại xảy ra lối tháng 3 năm 30, gần cuối đời Chúa Giêsu. Chúa đã giảng dạy tại Giêrusalem từ tháng 10 đến tháng 12 năm 29, nhưng tình hình căng thẳng quá, nên Chúa phải sang làm việc ở miền Pêrê, bên kia sông Giodan. Lúc đó, Chúa được tin Ladarô từ trần. * Gia đình của Ladarô, quê ở Bêtania, cách Giêrusalem hơn 3 km. Ladarô có hai người chị là Matta và Maria. Đây là một gia đình rất thân quen với Chúa. Mỗi khi lên Giêrusalem, Chúa hay đến trú ngụ tại gia đình này. * Ta là Sự Sống lại và là Sự Sống: Chúa Giêsu là Thiên Chúa, Người là nguyên nhân của việc sống lại và cả của sự sống của muôn loài trên trái đất, trong đó có thân xác của chính Chúa nữa. b/. Con người trên đời này rất tò mò về chuyện tương lai, nhất là chuyện người chết rồi sống lại; vì thế có một số truyền thuyết nơi một số bộ lạc, nhất là bộ lạc thiểu số. Bộ lạc Vaudou, miền Trung châu Mỹ, có truyền thuyết Zombie: đó là người chết sống lại, đi ra khỏi mồ, bị một phù thủy quản chế, phải làm theo ý ông ta. Ở Trung Hoa cũng có truyền thuyết Cương Thi, cũng tương tợ như Zombie: một phù thủy hay đạo sĩ có tài sẽ điều khiển các thây ma ra khỏi mồ để làm việc cho mình.Vài bộ tộc da đen ở Châu Phi, cũng có truyền thuyết, con người trước khi chết, được cho uống vào một loại lá cây tương tợ như ngãi, họ sẽ không chết hẳn, nhưng sẽ tồn tại một thời gian, sau đó sẽ sống lại như người trần... Những truyền thuyết nói trên cho đến hôm nay, cũng chỉ là truyền thuyết vì không có tính khoa học, cũng không phải là một thực tại và nhiều khi mang tính hoang đường nhiều hơn. Bài Tin mừng hôm nay trình bày câu chuyện Ladarô đã chết 4 ngày, lại được sống lại. Ladarô một con người có thực, lịch sử, vì đau bệnh đã chết 4 ngày. Cái chết của ông không phải là một cái chết giả tạo, mà là một sự thật được nhiều người làm chứng. Vậy mà sau 4 ngày, Ladarô đã chết, được Chúa Giêsu cho sống lại. Dĩ nhiên sau này Ladarô cũng sẽ chết lần nữa. Chúa Giêsu là Thiên Chúa, nên Người chính là nguyên lý của sự sống và sự sống lại. Muốn cho Ladarô sống lại, Chúa không nhờ bất cứ ai hay nhờ quyền năng nào. Chính Chúa Giêsu dùng quyền năng của chính mình mà làm cho Ladarô sống lại; Chúa không mượn tay hay cậy nhờ quyền năng của người khác như thày phù, thày pháp...Thiên Chúa chính là chủ của sự sống, thử hỏi Người muốn điều gì lại không được? c/. Gợi ý sống và chia sẻ: Chúa Giêsu là Sự Sống lại và là Sự Sống, vì chính Chúa đã chết sau 3 ngày, đã tự mình sống lại, ta có tin không? Trên trần gian hay chết này, chúng ta tìm đâu ra sức sống để mà sống? Có phải ta đi tìm trong tiền bạc, lạc thú, rượu chè và những lý thuyết đưa tới sự chết, thực ra chúng ta tìm cái gì? Tìm Chúa hay tìm những thứ đó? 82. Ta là sự sống lạiPhép lạ lớn nhất: Cho Lazarô chết chôn bốn ngày sống lại. Ta là nước sự sống. Ta là ánh sáng thế gian. Ta là sự sống. Cứu độ là cứu cho sống. Phép lạ nầy là đỉnh của các phép lạ Sự sống là đỉnh của công trình cứu độ. Ta là sự sống là đỉnh của giáo lý cứu độ của Đức Giêsu. Được sống lại là được biến đổi như Đức Giêsu biến hình vinh quang. Điều kiện: - Người Thầy thương mến: là nghĩa thiết, thân tín với Đức Giêsu. - Đức Giêsu yêu mến Matta và hai em là Maria và Lazarô. Người thường đến trọ nhà Bêtania. - Lazarô, bạn của chúng ta (các môn đệ). Có ý kiến cho rằng Lazarô là"môn đệ Đức Giêsu yêu mến". - Đức Giêsu khóc - Kìa xem Người thương anh ấy dường nào. Câu chuyện: Hai cô cho người đến nói với Đức Giêsu: Người Thầy thương mến đang đau nặng. Chắc là Đức Giêsu sẽ đến ngay vì Lazarô là "bạn của chúng ta". Nhưng Đức Giêsu bảo: bệnh nầy không đến nổi chết, nhưng để vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện và Con Thiên Chúa được tôn vinh. Hai ngày sau Người nói: Lazarô bạn chúng ta đang yên giấc, chúng ta đi đánh thức anh ấy. Khi đến nơi thì Lazarô đã được chôn bốn ngày rồi. Matta ra đón Người và nói: nếu có Thầy ở đây thì em con không chết. Lời trách nhẹ "nếu Thầy đến sớm hơn"vì lẽ ra Đức Giêsu đã phải đến trước "vì Người thương mến nhà nầy". Nhưng lại là một mạc khải "có Chúa là sự sống thì không có sự chết". Nhân đó Đức Giêsu mạc khải thêm: Em cô sẽ sống lại. Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Ta thì dù đã chết cũng sẽ được sống. Ai sống mà tin vào Ta thì muôn đời sẽ không phải chết. Cô có tin thế không? Thưa Thầy: Có. Con vẩn tin Thầy là Đấng Kitô Con Thiên Chúa, Đấng phải đến thế gian. Maria ra gặp Đức Giêsu cũng nói: Nếu có Thầy ở đây thì em con không chết (cũng trách "sao Thầy không đến sớm hơn"). Đức Giêsu thổn thức trong lòng và xao xuyến. Người khóc. Đức Giêsu là người thật, có những tình cảm tự nhiên như mọi người. Người hỏi:Chôn anh ấy ở đâu? Mời thầy đến xem. Hãy cất tản đá ra.Matta nói: Thưa Thầy: thối rồi vì đã bốn ngày. Đức Giêsu ngước mắt lên, cầu nguyện cùng Chúa Cha rồi kêu lớn: Lazarô hãy ra đây. Người chết liền đi ra. Phép lạ lớn nhất dành cho "người thầy thương mến", không cho ai khác mặc dù là để " vinh quang Thiên Chúa được tỏ hiện và Con Thiên Chúa được tôn vinh". Hãy là nhà Bêtania được Đức Giêsu yêu mến. Hãy là Lazarô "người Thầy thương". Lazarô được sống lại nhưng rồi cũng chết. Không là bao vì sống lại trong xác phàm. Xác phàm là phải chết. Đức Giêsu cũng phài cởi bỏ xác phàm để mặc lấy vinh quang Thiên Chúa là sự sống vỉnh cữu. Sống vỉnh cữu mới là sống. Sống tạm, phải chết thì không là sống. Việc cho Lazarô sống lại ngoài việc"tỏ hiện vinh quang Thiên Chúa và tôn vinh Đức Giêsu " không nói gì nhiều hơn. Không báo truớc sự Phục Sinh vinh quang của Đức Giêsu như thường hiểu vì sự phục sinh nầy không"vinh quang". Người ta muốn xin cho người chết của họ sống lại như Lazarô và nếu được thì thích lắm còn nói sự sống lại vinh quang ngày sau thì không gây ấn tượng bao nhiêu, chỉ lờ mờ, không hâm hở mấy. Hãy động tâm, động nảo một tí. Cái nào lớn hơn và hãy muốn cái lớn hơn, muốn nhiều hơn, mạnh mẽ hơn, bằng mọi giá, sẳn sàng đổi tất cả, cả mạng sống của thân xác vì cái đuợc lại là sự sống đời đời. Để được vào trong vinh quang của Thiên Chúa Đức Giêsu cương quyết "lên Giêrusalem" vì sau thập giá mới có Phục Sinh vinh quang. Phải cởi bỏ thân xác phàm tục, biến đổi nó thành "Phục Sinh vinh quang". Noi gương Đức Giêsu đã có biết bao nhiêu người, tử đạo, hiển tu..đã từ bỏ, đã chấp nhận không ngại, không quản dù là gian nan khốn khó thế nào để bảo đảm cho được Phục sinh vinh quang với Đức Giêsu. Họ đã đúng. Chúng ta hãy nối bước theo họ mà tiến bước mạnh mẽ, vửng vàng như họ để được như họ và chắc chắn. Đức Giêsu đã mở đường và đang dẩn đường. Cùng Người bước đi trên con đường Người đi thì lo gì. 83. Tin sẽ được sống--Huệ MinhTin Mừng Ga 11: 3-7.17.20-27.33-35: Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu... Là người như bao nhiêu người, Chúa Giêsu cũng xót thương, cũng rung động trước nỗi mất mát của người thân, của bạn hữu. Và Chúa đã thật sự xót thương, thật sự rung động trước cái chết của chàng trai Lazarô, bạn của Chúa. Thế nhưng điều mà Tin Mừng muốn nói không dừng lại ở việc Chúa xúc động. Vượt trên cái chết rất đỗi bình thường của Lazarô, là sự khẳng định quá sức phi thường của Chúa Giêsu: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ”. Ngay từ bài đọc I trích từ sách tiên tri Ez.37,12-14, tác giả lên tiếng “ Ta mở cửa mồ các ngươi và kéo các ngươi ra khỏi mồ, Ta sẽ cho các ngươi thần trí của Ta và các ngươi được sống”. Qua bài đọc II, thư của Thánh Phaolô tông đồ gửi cho Giáo đoàn Roma, Ngài cũng nói: “Thánh Thần của Đấng làm cho Đức Giêsu Kitô từ cõi chết sống lại ở trong anh em”(c. 11). Và nhất là bài Tin Mừng theo Thánh Gioan 11, 1-45 Chúa Giêsu xác quyết: “ Ta là sự sống lại và là sự sống, ai tin Ta dầu có chết cũng sẽ được sống “. Chúa Giêsu chính là sự sống, là Đấng ban sự sống cho những ai tin vào Ngài, điều này được chứng minh qua phép lạ làm cho Lazarô sống lại. Đây là trình thuật dài nhất trong Tin Mừng Gioan và phép lạ chỉ xẩy ra ở lúc cuối, còn phần đầu là chuẩn bị. Cả trình thuật là một thảm kịch được dàn dựng từng hồi, càng lúc càng căng thẳng, cho đến khi được kết cục trong hành vi cuối cùng: Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Đấng ban sự sống và đòi con người phải đáp trả bằng niềm tin. Nhưng lời khẳng định của Chúa có xác đáng không, khi mà thực tế, chết là đau xót, là chia cắt? Chứng kiến cái chết của người thân nhiều khi làm lòng ta se thắt lại. Ta muốn làm một cái gì đó để cứu giúp họ nhưng hoàn toàn bó tay. Thử hỏi lời Chúa Giêsu: “Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta, sẽ không chết bao giờ” có là lời chân thật? Nếu đó là lời xác đáng, thì sự sống mà Chúa Giêsu nói là sự sống nào mà lại “không chết bao giờ”? Ai cũng biết tình cảm của Chúa Giêsu dành cho gia đình của Ladarô rất thân thiết. Thế nhưng khi nghe tin Ladarô bị bệnh, Chúa Giêsu không đi ngay, Người vẫn ở lại Épraim đến hai ngày. Điều này thật tai hại. Vì như chúng ta biết khi Chúa Giêsu đến Bêtania thì Ladarô đã chết và được chôn cất đến 4 ngày! Ngay Mácta vốn rất yêu quý Chúa Giêsu nhưng khi ra đón Chúa, câu nói của cô có gì đó chứa đựng sự trách móc, giận hờn: “Nếu có Thầy ở đây thì em con đã không chết”. Trách móc cũng phải thôi nhưng đó lại chính là khởi điểm cho một giáo huấn về sự sống lại mà Chúa Giêsu muốn dành cho chị cũng như cho mỗi người chúng ta. Lời Chúa phải được suy niệm bằng đức tin, vì là lời của ĐỨC TIN. Chúa không hề bảo rằng: “Ai suy nghĩ về Ta…”, mà lại nói rằng: “Ai tin Ta…”. Vì thế đọc Lời Chúa, bạn và tôi đừng dừng lại ở chỗ chỉ suy nghĩ mà hãy tiến xa hơn đến chỗ suy niệm. Vì điều quan trọng không nằm ở chỗ biết suy nghĩ, nhưng quan trọng là suy nghĩ trong đức tin. Chỉ trong đức tin, lời của Chúa Giêsu không những là lời xác đáng mà còn là lời ban niềm hy vọng. Một niềm hy vọng mãnh liệt vào sự sống phía sau cái chết, một sự sống “không chết bao giờ”. Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ thấy vinh quang Thiên Chúa và giúp cho các ông thêm lòng tin vào Người nên, khi nghe tin Lazarô đau nặng Ngài còn lưu lại hai ngày và sự việc là Lazarô chết: Họ phải chứng kiến việc Lazarô thực sự đã chết - có mùi rồi - 4 ngày - là cần thiết. Có lẽ chính vì Lazarô là người yêu của Người, gia đình Bêtania là gia đình Người thương mến mà Người đã để cho họ được tham dự vào sứ mạng của Người. Người không đến ngay vì nếu Người đến Người không chịu đựng được việc để bạn Người chết và việc gia đình Matta và Maria phải đau khổ. Chứng cớ là Người đã thổn thức nhiều lần. Rõ ràng Đức Giêsu vừa rất Thiên Chúa vừa rất con người. Ở Bêtania Chúa Giêsu đã mạc khải cho Matta biết chính Ngài là sự sống lại và là sự sống(x. câu 25), các môn đệ cũng nghe điều này. Dĩ nhiên là Chúa Giêsu có ý nói sống lại về phần linh hồn chứ không phải thể xác như Lazarô. Chúa Giêsu sẽ dùng sự việc phục sinh cho Lazarô để nói đến việc Ngài phục sinh phần hồn cho những ai tin vào Ngài. Matta đã mạnh dạn tuyên xưng: “ vâng thưa Thầy con tin”(c.27), chính niềm tin mạnh mẽ này nên Ngài đã làm cho Lazarô chết đã bốn ngày sống lại. Không ai sinh ra là để sống ở trần gian đời đời cả, nhưng sinh ra để rồi chết. Nếu không có đức tin, không mảy may biết một chút gì đến sự sống đời sau, thì rõ ràng, cuộc đời là bi đát. Vì sao lại bi đát? Là vì cuộc sống trần gian giống như một chuyến đi. Ở cuối hành trình của cuộc đời mỗi người không phải danh vọng, địa vị, hưởng thụ, giàu sang, tiền rừng, bạc bể..., mà là cái chết. Chấm dứt tất cả. Giết chết tất cả. Bị cướp mất tất cả. Trong cái chết, có lẽ con người ta cô đơn nhất. Dẫu có hai người sát cạnh nhau cùng chết, cũng khó có thể nói rằng: chết cùng, chết với. Mỗi người là một cái chết, rất tư riêng, không bao giờ hòa trộn, không bao giờ lẫn lộn. Trong cái chết, con người ta trở thành nghèo nhất: bỏ lại tất cả, chỉ có hai bàn tay trắng. Điều còn lại chỉ là một cái xác không hồn. Nhưng cái xác không hồn này rồi cũng phải bị vùi dập, hay thiêu đốt lập tức, vì nó sẽ thối rữa đến đến tan nát, đến mất mát, đến không còn gì. Rõ ràng bi đát, rất bi đát… Nhưng người Kitô hữu có đức tin. Họ xác tín mạnh mẽ vào Đấng là Thiên Chúa đã làm người chia sẻ đến cùng kiếp sống con người của họ. Người đã chết thật, nhưng đã đi bước trước để dạy họ bài học của sự sống đàng sau cái chết: đó là chính Chúa đã sống lại thật. Sự sống đàng sau cái chết mới là sống thật, sống vĩnh cửu. Một sự sống không có sự chết. Đấng Phục Sinh ấy, hôm nay, trong Tin Mừng, đã nói một cách tường tận, thẳng thắn với Mattha, cũng là nói với bạn và tôi: “Ta là sự sống lại và là sự sống. Ai tin Ta, dù có chết cũng sẽ được sống. Và kẻ nào sống mà tin Ta sẽ không chết bao giờ”. Qua cái chết và sự sống lại của Ngài, Chúa Giêsu đã loan báo cho con người một tin mừng: cái chết không còn là một ngõ cụt hay tận cùng nữa mà là cửa ngõ dẫn vào một cuộc sống mới, một cuộc sống trong Đức Kitô và cùng với Đức Kitô trong cõi vĩnh hằng. Vì thế, thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu đã nói: “Nếu một mai bạn thấy tôi nằm chết, bạn đừng buồn, vì chính Cha chung của chúng ta là Thiên Chúa đã đến đón tôi đi, đơn giản vậy thôi”. Hoặc như thánh Phaolô đã nói: “Đối với tôi, sống là Đức Kitô và chết là một mối lợi”. Tin vào Đấng tự mình phục sinh và hứa ban ơn phục sinh cho những ai tin, người Kitô hữu cảm nhận bình an trong cuộc sống. Đức tin giúp họ hiểu rằng, cái chết chỉ là một sự biến đổi để trở về cùng Thiên Chúa. Nhờ đức tin, chúng ta nhận ra ý nghĩa của cuộc đời. Những cố gắng xây dựng cuộc đời sẽ cho ta hạnh phúc tương lai. Nếu hiểu như thế, cuộc đời không bi đát, nhưng đáng yêu.
|